Lịch Sử Tư Tưởng Chính Trị Thế Giới. Di sản tư tưởng chính trị Hy Lạp-La Mã Cuộc Đối Thoại Với Quá Khứ Qua Tư Tưởng Chính Trị Của Aristote
Trần Thanh Hiệp, LS
May 3, 20140 Bình Luận
May 3, 20140 Bình Luận
Lịch Sử Tư Tưởng Chính Trị Thế Giới. Di sản tư tưởng chính trị Hy Lạp-La Mã – Cuộc Đối Thoại Với Quá Khứ Qua Tư Tưởng Chính Trị Của Aristote
Một giáo sư trường Đại học Panthéon-Assas, Paris II, trong quyển Hợp Tuyển về Tư Tưởng Pháp Lý (Anthologie de la Pensée Juridique), mà ông là tác giả, có viết rằng ba nhà hiền triết lỗi lạc của Hy Lạp, Socrate, Platon và Aristote, đã đặt nền móng trí thức và đạo đức cho Phương Tây. Người ta cũng đọc thấy trong quyển Toàn Cảnh về Triết Học (Panorama de la Philosophie)
rằng ba nhà hiền triết này là ba khuôn mặt đánh dấu Thời Đại Hoàng Kim
của triết học Hy Lạp. Socrate, tuy là nhân vật hàng đầu nhưng ông không
trước tác, chỉ là người giảng dạy mà thôi.
Ông
không để lại cho hậu thế tác phẩm viết, vì ông không nhằm trực tiếp
truyền thụ những kiến thức nhất định. Ông chỉ mở ra những cuộc đối
thoại trong đó, tùy trường hợp, ông nêu
lên những hiểu biết sai lầm, có loại bỏ được thì mới tránh được nạn suy
nghĩ sai. Bài học cơ bản của ông là “Hãy tự giác” (Connais-toi toi-même).
Mặt khác, học trò của ông rất đông, chính Platon và Arístote cũng đã
tìm đến ông để được thụ huấn. Cho nên để nghiên cứu về riêng Socrate,
cần có thêm thời giờ. Về phần Platon, trên mục này đã có một bài nghiên
cứu sâu. Dưới đây là phần nói về Aristote.
Nhà tư tưởng Arístote
Nói
rằng Aristote là
một nhà tư tưởng không phải chỉ nói ông là một nhà chuyên môn, một nhà
khảo cứu về tư tưởng. Mà thật ra chỉ chú trọng trình bày những nét đặc
thù của Aristote trong mọi hoạt động của ông trên địa hạt tư tư tưởng.
Những nét đặc thù đã dẫn ông tới một thứ tư tưởng đặc thù, biến ông
thành người đối cực của Thầy mình, Platon.
Sinh
năm 384 trước CN tại Stagire, một thành phố thuộc vùng đất Macédoine,
Aristote từ thời
niên thiếu đã được biết, trong tương lai, sẽ là một người đặc biệt. Về
nhiều mặt. Như về nguồn gốc. Ông xuất thân trong một gia đình qúi tộc.
Thân phụ ông là bác sĩ Nicomaque, thầy thuốc riêng của vua nước
Macédoine. Thân mẫu ông là một nữ-hộ-sinh. Vì vậy, ông đã theo học ngành
y khoa và đã trở thành một bác sĩ. Nhưng đồng thời ông lại còn là một
triết gia, một trong ba triết gia biểu tượng cho một nước Hy Lạp cổ đại,
bắt đầu chuyển hóa sang tân đại.
Vì
là người Macédoine nên Aristote không được kể là công dân của Thành
Quốc Athènes. Ông chỉ là một ngoại kiều. Năm 17 tuổi, ông rời Macédoine
đến trú ngụtại Thàn h Quốc này để nhập học trường Académie của Platon. Ông được thâu nhận và được Platon cử làm trợ giáo về môn tu từ học (rhétorique). Những biệt danh “Người đọc sách” (độc thư nhân), “Trí thông
minh” là do Platon đặt cho
ông.
Quả thật Platon đã sớm khám phá ra nơi người học trò trẻ tuổi của mình, Aristote, một
triết gia hàng đầu có khả thế mang lại danh tiếng cho Hy Lạp, trải qua
các thời đại. Vì như lịcih sử đã chứng tỏ, ảnh hưởng của Aristote sâu
rộng không riêng gì đối với tư tưởng
phương Tây, mà còn cả đối với tư tưởng la-mã, tư tưởng trung-cổ, nhất
là trên địa hạt pháp lý và chính trị học. Khởi đi từ một cái nhìn
khoáng đạt vềcon người, về loài người, Aristote đã cổ võ cho tinh thần
đại đồng, phổ quát (universalisme) trong cuộc sống cá thể cũng như tập thể. Nhờ vậy, ông đã xây dựng được một hệ thống tư tưởng “chủ toàn”
(holisme, holism) với nhiều chiều kích, bao gồm được cả nhân sinh quan
lẫn vũ trụ quan trong một cấu trúc tinh thần thống hợp linh
động, gần như tự
nhiên. Do đó, tư tưởng của ông mang nhiều nét đặc thù, so với các xu
hướng đương thời như các phái Khắc Kỷ, Hùng Biện, Xi-ních- Cynique – tạm dịch là Duy Nhiên, sống không câu nệ để được gần tự nhiên,v.v… Cũng
nên nhấn mạnh
rằng, thấm nhuần tinh thần duy lý
của y học, Aristote chủ trương muốn quan sát một xã hội thì phải dựa
vào thực trạng của xã hội ấy chứ không thể vào một ý niệm đã có sẵn từ
trước về xã hội. Tức là theo Aristote thì chỉ có thể tin vào sự thật
khách quan, có thể lý giải được. Suy rộng ra, sự thực trong xã hội là
công lý. Nhưng với năng khiếu biện chứng (biết tranh luận) sẵn có trong
ông, Aristote lại đòi hỏi rằng công lý còn phải thực hiện thành công
bình (équité) chứ không phải chỉ là sự phân phối có tính cách
thuần toán học. Chính vì cần thỏa mãn cho thật đầy đủ các nhu cầu về mọi
mặt nên ông chọn chỗ đứng trung
dung trong mọi hoạt đọng trong cuộc sống. Theo ông, cần phải có xác
tín nhưng đồng thời cũng không nên loại bỏ tinh thần tương đối (có điều
này nhưng cũng có điều nọ, có ta, có người, có luật thành văn thì cũng
vẫn có thể có luật không thành văn để thăng hoa các luật pháp mà bổ sung
cho luật học v.v…).
Về
mặt chính trị, ông không bị bó hẹp trong những tranh chấp giữa các
Thành Quốc, ở Athènes, ông chỉ là một ngoại kiều. Nên ông
đã không có được vai trò tích cực trong sinh hoạt chính trị của Thành
quốc này. Đã vậy, cuộc đời ông đã trùng khít với sự suy thoái của các
Thành Quốc biệt lập ở Hy Lạp. Athène chỉ còn là bóng mờ của thời vàng
son của một Thành Quốc hầng đầu của Hy Lạp. Một không gian chính trị mở
rộng đang thành hình. Dân chủ sớm muộn cũng sẽ phải nhường vũ đài lịch
sử cho quả đầu chế hay đế chế.
Sau
cái chết của Platon, Aristote quay về
Macédoine và được mời làm gia sư cho con của vua Macédoine là
Alexandre, sau trở thành Alexandre Đại Đế, nổi danh khắp thế giới vì
cuộc trường chinh của ông. Dù vậy, Aristote vẫn không có dịp thuận tiện
để làm chính trị nên ông đã chỉ suy nghĩ về chính tri.
Khác
với Socrate, không có tác phẩm viết và hơn Platon, Aristote đã viết rất
nhiều và về đủ loại. Luận lý, thi ca, vật lý học, sinh học, khí tượng
học, tu từ học, tâm lý học, chính trị
học, triết học…Rất tiếc là công trình sáng tác đồ sộ ấy của ông đã bị
thất tán rất nhiều. Trong phần còn lại, có ba tác phẩm mà người ta coi
như là những
phản ảnh trung thành của tư tưởng của Aristote. Đó là Les Politiques (Bàn Về Chính Trị), Éthique à Nicomaque (Đạo Lý Trao Tặng Cho Nicomaque) và một phần của cuốn Constitution d’Athènes trong
đó Aristote đã nghiên cứu 158 bản Hiến pháp của 158 Thành Quốc ở Hy
Lạp… Một cái nhìn lướt qua mấy tác phẩm này sẽ tóm lược tư tưởng của
Aristote như sau. Người ta coi Aristote như là người đi tiên phong sáng
lập ra môn Chính Trị Học. Để làm công viêc đó, Aristote đã xây nền đắp
móng cho Chính Trị Học và phân loại các chế độ chính trị.
Một Khoa Học về Chính TrịNền
móng của Chính Trị Học
Aristote
đã được đào tạo trong môi trường khoa học của sinh học, của y học nên
ông triệt để tôn trọng kết quả của sự quan sát. Trước những sự thật
khách quan, ông sẵn sàng cúi đầu tuân theo kỷ luật phải giữ thái độ
trung lập trước những kết quả của sự quan sát ấy. Chẳng những vậy, ông
còn chủ trương nới rộng kỷ luật tôn trọng kết quả sang những loại kiến
thức khác ở ngoài môi trường sinh vật
học, như ở trong môi trường xã hội, chính trị. Nhất là bởi ông là ngoại
kiều ở Athène,
không được phép trực tiếp tham dự vào sinh hoạt chính trị của Thành
Quốc này nên ông lại càng xu hướng coi việc quan sát sinh hoạt ấy bằng
con mắt lạnh lùng của một nhà dân tộc học. Ngoài ra, ông còn so sánh các
hiện tượng chính trị với nhau như so sánh các loài trong sinh vật học.
Để
nghiên cứu các hiến pháp, ông phân chia các hiến pháp này trên có sở
những tương đồng, dị biệt giữa các loại chế độ, các nền hành pháp, các
loại pháp
luật, các thể thức tuyển chọn người cầm quyền v.v…Khi phân loại như
vậy, ông không dừng lại ở những sự miêu tả thuần túy mà còn tìm cách
vượt lên trên những miêu tả này để đi tới tổng hợp. Và ông chỉ rút ra
kết luậu sau khi đã phân ich kỹ lưỡng các sự kiện. Ông tuyệt đối gạt bỏ
mọi thái độ tiên thiên, những thành kiến, thiên kiến, ngay cả những khi
ông quan sát những đối tượng mà ông không ưa thích.
Được
một điều là
ông vốn không đam mê về chính tri. Nhờ vậy mà ông đã cung cấp cho hậu
thế một kiến trúc khoa học về chính trị học,xuất phát từ. Phương pháp
phân tích trên đây là thành tố thứ nhất của nền móngcura chính trị học
theo Aristote.
Thành
tố thứ hai là tinh thần hiện thực của Aristote. Người ta nói rằng đó là
thứ đặc điểm đã làm cho người học trò Aristote khác biệt với thầy học
Platon. Hay nói cách khác, đó là sự khác biệt giữa
phương pháp phân tích dựa vào kinh nghiệm và phương pháp đứng trên có
sở ý niệm. Thầy bước vào địa hàt chính trị với những khái niệm tiên
thiên có sẵn từ trước. Như vậy, cuộc khảo sát dường như đã được sắp đặt
trước. Vì đã được cân đo và đánh giá theo những tiêu chuẩn bất biến.
Ngược lại, trò sẽ chỉ tìm kiếm chân lý trong những đối tượng có thể
quan sát được. Với trò, sẽ không có những Chân, Thiện tự thân. Quan sát
và kinh nghiệm là những dấu mốc chắc chắn nhất để đưa dẫn tới chân lý
trong chính trị và đạo lý.
Thầy
và trò đều đi tìm những tuyệt đối trong mọi lãnh vực. Nhưng thầy đi
theo ngả của những yếu tố siêu hình, không cần kinh qua kinh nghiệm.
Trò, về phần mình, đã chọn một lộ trinh ngược lại với thầy, dừng bước
trước biên cương của siêu hình và chịu sự dẫn đạo của quan sát và kinh
nghệm.
Cả
hai cuộc hành trình tuy
trái ngược nhau nhưng đã hợp lực để lưu lại cho hậu thế những bài học
về sự nghiệp xây dựng vân minh tiến bộ cho loài người. Và đó là một đóng
góp vô giá của Aristote cho di sản tinh thần Hy Lạp.
Trần Thanh Hiệp, LS
May 3, 2014
May 3, 2014
Tư Tường Chính Trị
Trần Thanh Hiệp, LS
February 1, 2014One Bình Luận
February 1, 2014One Bình Luận
I.- Lược sử Tư Tưởng Chính Trị Thế Giới
1.- Tổng quan
Như đã nêu lên trong Lời Mở Đầu, con
người đã phải thường xuyên vận dụng khả năng suy nghĩ, để quan sát
thiên nhiên và xã hội, tự hỏi mình về số phận của chính mình cũng như
của tập thể. Để thỏa mãn
các nhu yếu của cuộc sống. Tư tưởng chính trị bắt
nguồn từ các nhu yếu đó. Ý kiến này cần được khai triển thêm, để nhận
diện cho rõ hơn nữa, gốc đích thực của hiện tượng tư tưởng chính trị.
Tức là con người, ngoài đời sống cá thể, còn có thêm đời sống tập thể. Hai đời sống này đã gắn liền với nhau để tạo thành Đời Sống
- còn gọi là Sinh Mệnh – Con Người. Dưới ánh sáng của nhân-loại-học(anthropology), của nguyên-thủy-sử (archeology), người ta có cơ sở để tạm kết luận rằng hình thức sống, cách sống song đôi này là sự thể hiện của quá trình hàng triệu năm Sinh Vật Người đã tự biến đổi thànhCon Người, khác hẳn và, riêng biệt hẳn, với các sinh
vật khác. Cách biến đổi đặc thù nói trên có tên gọi làVăn Hóa - chỉ riêng Con Người mới có – mà bước đầu là sự thành lập ra Nhân Đạo. Dưới sự thúc bách của hai nhu yếu tự nhiên chính của con người, là bản năng hợp quần (instinct grégaire) và nhu cầu cố định (besoin de
régularité), Nhân Đạo, theo thời gian, đã tăng tiến để luôn hướng tới ổn định.
Nhờ quây quần với nhau, giúp đỡ nhau, hợp tác chia nhau lo công việc
chung trong cuộc sống hàng ngày, theo như đã cùng nhau giao ước, tránh
không để bị thay đổi bất ngờ, tránh không để mạng sống bị đe dọa, đối
ngoại cũng như đối nội. Đời sống của mỗi người, của tất cả mọi người đòi
hỏi phải chắc chắn được bảo vệ, bảo toàn. Tức là đời sống của con
người, chung và riêng, phải được ngày một cải thiện. Rõ ràng là con
người đã vận dụng mọi khả năng, vốn có sẵn trong nó,
để tự võ trang cho mình hai qui mô tâm linhvà vật thể, triển khai thành đời sống song đôi cá nhân và xã hội, trong đó chính trị - kỹ thuật và nghệ thuật điều hợp đời sống chung – giữ vai trò chủ đạo. Mà nói chính trị là phải nói cả tư tưởng lẫn hành động. Đó là lý do cho phép khẳng định rằng gốc của tư tưởng chính trị bắt nguồn từ đời sống vừa cá thể lẫn tập thể của con người.
2.Tinh thần và lộ trình khảo sát tư tưởng chính trị trên thế giới
Trong “Lời Nói Đầu” cũng đã có sự xác định rằng mục Tư Tưởng Chính Trị trên Việt Thức đã
được soạn thảo trong tinh thần thực tiễn để chụp bắt tư tưởng chính trị
Việt Nam, thay vì theo đuổi dụng đích hàn lâm. Cho nên nó sẽ không mang
dáng dấp của những công trình nghiên cứu cao thâm có trình độ đại học
hay thuần lý thuyết. Vậy tại sao còn có phần lịch
sử tư tưởng chính trị trên thế giới? Như đã giải thích trong tiểu mục Tổng
quan ở trên, tư tưởng chính trị gắn liền với đời sống con người và
xã hội loài người, nên khảo sát về tư tưởng chính trị Việt Nam tất không
thể không lồng tư tưởng này vào trong dòng tư tưởng chung của loài
người. Huống chi nhu cầu trước mắt của người Việt Nam hiện nay là phải
thay thế các loại tư tưởng chính trị của những thời làm nô lệ cho ngoại
bang và, nhất là, phải loại bỏ ngay lập tức loại tư tưởng chính trị phi
văn hóa, phi nhân quyền, phi nhân phảm mà tập đoàn bạo chúa bản địa đang
ra sức áp đặt. Ngoài ra, trong bối cảnh toàn cầu hóa, tư tưởng chính
trị Việt Nam tất nhiên bị tác động bởi tư tưởng và biến động chính trị
thế giới, do đó, cần đãi lọc tinh hoa nhân loại để tìm ra một tư tưởng
chính
trị Việt Nam mới, dọn đường cho sự ra đời của một nước Việt Nam tân
tạo, tự do, dân chủ, văn minh. Muốn vậy, phải biết quay về dĩ vãng, học
hỏi kiến thức, kinh nghiệm của người xưa, so sánh với các mô hình cũ xem
đau là thiếu, đủ, đâu là hay, dở, tốt, xấu. Tuy nhiên, cuộc khảo sát
trong phần Lược sử tư tưởng chính trị trên thế giới, trên Việt Thức, sẽ
không chú trọng phân tích tỉ mỉ tác phẩm của các triết gia, các nhà tư
tưởng chính trị nổi danh trên thế giới. Mà chỉ là một công việc rất
khiêm nhường là thiết lập một cuộc đối thoại giũa nhiều luồng tư tưởng
chính trị qua các thời đại, từ thượng cổ
tới tân
đại.
Hai
thí dụ nhỏ để minh chứng lợi ích của cuộc đối thoại cho thấy người Việt
Nam bây giờ cần nhập vào dòng chính của tư tưởng chính trị trên thế
giới của nhân loại.
Ngày
nay không ai phủ nhận rằng Hy Lạp và La Mã đã cung cấp ho nhân loại
nhũng mô hình đầu tiên của cuộc sống của con người biết tổ chức thành xã
hội có quy củ. Mặc dù, nhân loại ngày nay đã tiến rất xa ngyên mẫu
Hy-La, nhưng nguyên mẫu này vẫn còn có nhũng ảnh hưởng nhất định đối với
tư tưởng chính trị toàn cầu. Có là điều hữu lý khi cho rầng dòng tư
tưởng ấy không liên hệ gì tới tư tưởng chính trị ở Việt Nam hay không?
Hiện
nay, ở trong nước cũng như ở ngoài nước, ai cũng hô hào phải “đoàn
kết”, nhưng không ai dẫn ra được những lý lẽ có đủ tính thuyết phục rằng
đương nhiên và tự nhiên là phải đoàn kết. Chưa kể rằng lại còn có người
hô hào đoàn kết để chia rè. Nhưng nếu ai cũng tự động ý thức được rằng,
“đoàn kết” hay sống quy tụ là tạo điều kiện cho hai nhu yếu cơ bản của
con người, của loài người – “sống hợp quần và sống trong cố định” – được mãn thích. Vậy vì sao mà đoàn kết lại là chuyện bất khả thi?
Ngoài ra, vì khuôn khổ rất hạn chế của diễn đàn đối thoại ấy nên việc khảo sát dự kiến sẽ khởi đi từ Di sản tư tưởng chính trị Hy Lạp, La Mã (thế kỷ thứ V trước Công Nguyên), qua Tư tưởng chính trị thời Trung Đại (từ thế kỷ thứ V sau CN đến thế kỷ thứ XIV sau CN), Tư tưởng chính trị thời Phục
Hưng, Tư tưởng chính trị thời Khai Sáng từ (từ
thế kỷ
thứ XV đến thế kỷ thứ XVIII sau CN) để bước vào kỷ nguyên của Tự do,
Dân chủ với hai cuộc cách mạng tư sản dân quyền Mỹ vầ Pháp. Một cái nhìn
với ánh sáng tổng kết sẽ được chiếu rọi vào Xã Hội Kỹ Nghệ và Tương lai
của Dân Chủ trước ngưỡng cửa cưa thế kỷ thứ XXI.
Việc
khảo sát về tư tưởng chính trị trên thế giới sẽ kết thúc bằng một thử
nghiệm so sánh tư tưởng chính trị Nho giáo với Chính-tri-học (Political science)
của
phương Tây. Sự so sánh này sẽ là một công việc xét lại, rất cần thiết,
về giá trị của một ý thức hệ đã có cuộc sống chung hàng mấy ngàn năm với
người Việt Nam. Và xa hay gần, vết tich của nó vẫn được ghi khắc ít
nhiều trong ý thức và tiềm thức của cả một cộng đồng gần trăm triệu
người, dân tộc Việt Nam.
LS Trần Thanh Hiệp
Không có nhận xét nào:
Đăng nhận xét