TÌNH NỒNG
Lê Thị Hoài Niệm
***Trọn đời ta nô lệ vợ nhà
Trọn đời ta phục vụ cho đàn con
Bao nhiêu năm “khẩu chiến” từng ngày
Gia tài của vợ để lại cho ta
Gia tài của vợ là một chuỗi... cằn nhằn.
Vợ sai ta rửa chén hằng ngày,
Vợ kêu ta nấu cơm cho đều tay
Ta phải nấu đồ chay, nêm thật cay.
Vợ sai ta cắt cỏ ngoài vườn,
Vợ nhắc ta nhớ đưa tiền lương
Ta phải đưa sach trơn cho nàng…thương!
Vợ kêu ta chở tới cửa hàng,
Vợ mua chi ta hổng có được can,
Em cứ mua hàng sang, không phàn nàn!
Trọn đời ta giam hãm bởi vợ nhà
Trọn đời ta bị nhốt trong tù xa,
Bao nhiêu năm làm kiếp quần thần
Gia tài của vợ để lại cho ta
Gia tài của vợ là một đống việc làm.
Vợ chê ta sao chẳng nhiều tài
Vợ chê ta hát sao chẳng hay,
Ta hát bản “Tàn phai” nghe mệt tai.
Vợ chê ta không biết thờ bà!
Vợ chê ta không giống chàng A
Ta cứ quên tặng hoa, khi nàng…ca.
Vợ chê ta ngủ ngáy rầm rầm
Vợ chê ta chưa có thật tâm
Chưa có luôn…dạ vâng, khi nàng cần.
Một đời ta trao trọn cho vợ nhà
Trọn đời ta lo dạy đàn con
Bao nhiêu năm chung sống hàng ngày
Mối tình của vợ để lại cho ta
Mối tình của vợ là một khối...Tình Nồng”……
***Phỏng theo bài ca :gia tài của M ẹ-TCS
.
Ông
Tá đi tới đi lui trong phòng, miệng cứ hát oang oang những lời ca trong
bài “Gia Tài Của Mẹ” được ông cải biên mà chưa xin phép tác giả, hát
một cách thích thú, hứng khởi. Vừa hát thật to, vừa vung tay đá chân, cứ
y như đang giải tỏa được nỗi uất nghẹn trầm kha, u uẩn chất chứa tự bao
ngày. Người ta cứ bảo “Vắng Chủ Nhà Gà Vọc Niêu Tôm”. Úi chu choa chẳng
lẽ ông “xệ” thế sao? Ối Giời! Người ta lại còn “Nhất Vợ Nhì Trời,
Tam...” tam cái gì nhỉ? Thôi ông hổng muốn thành người Hán rộng mần chi,
cái kiểu Gáo Tra Dài Cán..., ủa nói lộn “Giáo Đa Thành Oán”, hổng lẽ
ông đang thể hiện nỗi oán hờn bằng những lời ca, khi bà vừa...khuất nẻo.
Đùa chút chơi vậy thôi chứ rõ ràng là bà nhà đang có mặt tại Sóp Ping
hiện
trường để sắm sửa y trang cho
buổi tiếp tân của gia đình người bạn và ông đang thảnh thơi ở nhà ca
hát cho đời lên hương. Ông không phải lót tót theo làm người phụ khuân
vác, nhất là những lúc hàng “on sale”. Ông được tự do thoải mái, trí óc
minh mẫn để sáng tác lời ca tiếng hát là phước đức nhiều đời của ông
rồi, chẳng có điều chi than phiền khiếu nại cả.
Nghĩ
cũng tức cười thật, đám tiệc là đám tiệc của người ta, đâu phải của
chính mình, hà cớ chi mà nôn na nôn nóng, chạy ngược chạy xuôi từ “sóp
ping” này sang “sóp ping” khác tìm cái áo thật ưng ý. Nói nào ngay, áo
quần người ta bày la liệt, đẹp không chỗ nào chê, nhưng chưa có Sale, sờ
vào đứt hết mấy ngón tay ngay nên phải chạy là thế. (Dĩ nhiên những
người nhiều tiền thì cần chi phải chờ đến “on-sale”, cứ đi ngang thấy
cái nào vừa ý, thử vào mà vừa vặn, cầm ra quầy cà-cạc là xong ngay). Tìm
được cái áo vừa đẹp vừa rẻ của những nhà may nổi tiếng như Versace,
Tahari, St. John hay Anne Klein, Donna Karan, v. v... thì còn gì thú
bằng, ai nhìn cũng phải sum xoe, suýt soa hít hà khen tặng. Vào phòng
tiệc phải đi tới đi lui, tìm người
bạn
này hỏi han vài câu, gặp người kia cười một cái, chứng tỏ mình là người
tử tế dzui dzẻ hòa nhã là đúng rồi, nhưng còn một duyên cớ khác: để cho
người ta chiêm ngưỡng áo quần đẹp của mình; chả ai dại gì mà ngồi một
chỗ cho nó phí!! Thiệt tình mà nói, đàn bà sở dĩ đẹp đẽ lộng lẫy hơn
cũng một phần nhờ vào quần áo, y trang và son phấn bên ngoài kết hợp
lại. Nhìn đàn bà đẹp hỏi ai mà không thích? Bởi vậy mấy đấng mày râu
thấy vợ ta đẹp, ta phải khen. Vợ người thì chớ dại, coi chừng bị chồng
người ta cho… ăn đòn đấy!.
Dù
cù lần cách mấy đi nữa, ông Tá vẫn khuyến khích vợ đi sóp, không đợi bà
phải nhỏ nhẹ vào tai “Mình ơi em đi sóp được không?” Đây là một cách
thể hiện tình yêu nồng thắm bao la, miễn sao đừng cà cạc thái quá để rồi
mang nợ trả hoài tiền lời cũng không xuể, nói chi tiền vốn, cuối cùng
khai băng rúp xi thì khốn. Làm có tiền cũng nên cho nó luân lưu; có
nhiều người bán phải có lắm kẻ mua. Nền kinh tế Mỹ có phát triển thì ta
mới có dzóp thơm, mới có cơ hội để tậu nhà lớn, xe sang. Ở xứ Mỹ mà
không mắc nợ là Mỹ dzỏm, nhưng nợ bù đầu bù cổ thì lại dzỏm hơn. Bởi vậy
hễ thấy dzợ dzui thì mình cũng dzui lây, thể hiện lời thơ “dzợ buồn
mình có dzui đâu bao giờ”. Người ta buồn người ta rầu thành nhạc sĩ
thiệt (?...?)
than thở nhạc tình
chết, tình lỡ, tình xa, tình sầu, tình tan, tình lang thang dở dang dang
dở. Còn ta dzui cũng phát tiết được lời ca nhưng “sáng tác viên” kiểu
nhạc ngoại quốc lời Việt ấy mà. Cứ lấy sẵn bài nhạc của người ta rồi để
lời hát vào, kể ra mình cũng hòa nhập được vào “trào lưu tiến hóa” của
nhân loại. Ông Tá tự hào bảo thế.
Nhan
nhản ngoài tiệm nhạc, hay nghe từ la-dzô phát thanh, nhiều bài nhạc thể
điệu xập xình thậm chí cà giựt nữa; nhưng lời ca thì từ chết tới bị
thương; chẳng hợp tình hợp cảnh hợp kim thủy mộc hỏa thổ tí nào...,
nhưng người ta vẫn là nhạc sĩ. Mình đây không ham nhạc ngoại thì chơi
nhạc Việt, bỏ lời Giao-Chỉ. Mấy ông nhạc sĩ đừng phiền nghe, tui cũng có
hỏi qua chớ không có âm thầm tự động lấy nhạc quí ngài sửa lời ca rồi
bỏ tên ta vào đâu ạ! Ông Tá nhủ thầm đôi lời xin phép coi như xong bổn
phận công dân. Thiệt ra lời hát vừa rồi ông đặt cho vui chứ làm gì có
tên đàn ông nào tệ vậy. Ông hát để tặng cho vợ chồng người bạn già sắp
sửa tổ chức buổi lễ “an- ni -vượt- sa- ri”( anniversary) mà bà vợ ông
còn mang đầu óc
“chống Mỹ cứu
nước”, suốt ngày cứ lẩm bẩm “ăn no mec- xi đi”. Bã còn cố giải thích:
người ta mời mình tới đãi thức ăn, thì mình cứ ăn, no nê rồi chẳng lẽ
không cảm ơn người ta, cảm ơn rồi thì...dzọt, đơn giản như đang giỡn
vậy. Nhiều đám tiệc vẫn xảy ra như vậy mà, cả đám cưới cũng vậy nữa, hễ
ăn đến món tráng miệng cuối cùng, cô dâu-chú rể chưa kịp đi cắt bánh, là
bà con đã lục tục đứng dậy ra về, còn lại những cái bàn trống trơn
chứng giám đôi trẻ chia vui bánh cưới……
An
ni hay ăn no gì đều tốt cả. Một sự gợi nhớ, một kỷ niệm đẹp, một “Ôn cố
tri tân” của cặp vợ chồng đã từng chia xẻ ngọt bùi, cũng có lắm khi đấm
thọt nhau (bằng mồm hay chân tay) nhưng nhằm nhò gì ba cái lẻ tẻ đó.
“Nhất nhật tại tù thiên thu tại ngoại” nhưng có loại nhà tù người ta
muốn ở thiên thu ấy mà (ở tù hổng ớn mà còn hẹn nhau đến kiếp lai sinh),
bằng chứng là thứ bảy hay chủ nhật nào những nhà hàng lớn đều không còn
chỗ trống. Những chiếc “Li-Mui-sin” kết hoa lủng lẳng đậu hiên ngang
trước cửa để chờ đón cô dâu và đưa chú rể về “nhà tù” (?), rồi bà con cô
bác có khi một tháng bốn tuần đều có mặt trong những buổi chúc mừng,
chia vui đó, họ chúc tụng “Sống bên nhau đến trăm năm đầu bạc
răng long” chớ bộ giỡn chơi sao.
Thấy
người mà chạnh nghĩ đến ta, ông Tá cũng muốn tổ chức một buổi an-ni,
gọi nôm na là kỷ niệm tân hôn, hay thêm nghĩa nữa là “hấp hôn”, là “hâm
nóng(?) lại cuộc tình, mời bà con cô bác đến chung vui. Trước là trình
diện bà vợ già với đám con cháu bầu đoàn thê tử, nhưng khổ nỗi ông vô
tình quên béng mình cưới vợ ngày nào, muốn hỏi bà vợ thì ngại bà la
toáng lên trách cứ người sao vô tâm, đoảng trí. Thật ra ông chỉ nhớ cái
năm tháng nghỉ hành quân, chạy tọt về nhà kêu ông bà già đi cưới vợ
phương xa. Thiệt tình hồi đó mỗi lần đi phép về nhà, cha mẹ ông đã từng
năn nỉ ỷ ôi rằng ông hãy cưới “cô hàng xén” ở dưới chợ Đầm mà cũng là
“cô hàng xóm” của ông. “Nhà nàng ở cạnh nhà ông, cách nhau có một đám
đất
không sau hè” (khu Phước Hải hồi đó đất rộng người thưa, chứ không có
chật cứng như bây giờ), hai bà già đã ăn ý với nhau lắm lắm. Mẹ của nàng
không hiểu có phải vì thấy ông hiền hậu dễ bảo, hay lo sợ con gái bà ế
độ, muốn tìm cho nàng một bến đậu an toàn nên đã chấm ông. Bà đưa điều
kiện nếu ông chịu, bà sẽ chạy chọt cho ông về làm huấn luyện viên ở quân
trường gần thành phố để… đêm ngày nghe sóng vỗ. Ông có vợ, bà có rể
quí, hai bên đều có lợi. Ông khỏi phải chịu cảnh đi hành quân lặn lội
nơi đồng lầy phèn chua nước mặn, khỏi hứng chịu cảnh đêm đêm mưa rơi tầm
tã, mưa ào ào, mưa rào rào trên tấm Poncho mà đã nhiều lần vuốt nước
mưa trên mặt, ông cứ ngỡ nước mắt của chính mình, và cả những ngày
nắng
nữa. Nắng đổ lửa đổ củi, nắng cháy da bò, nắng nung người mà trận địa
thì còn loang máu tươi. Bà cụ đã vẽ cho ông chữ Thọ ngay trước trán,
tránh được nguy cơ phủi chân ngồi xếp bằng trên bàn thờ. Ấy vậy mà ông
lại khăng khăng từ chối, khiến mẹ ông buồn và bà cụ hàng xóm chửi quá
mạng.
Chẳng
phải vì ông yêu đời sống lính trận miền xa gì (tên nào không muốn làm
lính thành phố?) mà tại vì ông đã lỡ yêu hoa trinh nữ nơi ông tạm dừng
quân, và cuối cùng thì “đám cưới nhà binh em ơi” cũng dzui dzẻ rộn ràng,
rình rang rộn rịp lắm chớ có thua ai đâu. Và vì “tiền lính tính liền”
nên ông bèn đưa vợ theo nâng khăn sửa túi, sống tạm ở “trại gia binh”
vậy, và hàng năm ông bà vẫn đều đều sản xuất những “thiếu nhi quân”,
quân đội VNCH bỗng dưng có thêm nửa tiểu đội lính con mà không phải bỏ
công tuyển mộ. Mỗi tháng chính quyền chỉ phải phát lương tính theo đầu
người 2,000 đồng một đứa. Những đứa con của ông đặt tên theo kiểu 12 con
giáp cho dễ nhớ, khỏi lẫn lộn về sau, nếu phải làm khai sinh kiểu thế
vì,
vì bản chính đã bị thất lạc
hủy liệt. Bởi vậy đám con ông được mang tên thằng Chuột, con Mèo, thằng
Thìn, thằng Tỵ, con Tỵ, thằng Dê...sồn sồn năm một ra lò cũng dzui đáo
để, rồi thì những năm dài tù tội.
Thật
sự cái mục nầy miễn bàn tới ở đây nó sẽ mất dzui, bây giờ cả “bà chúa
ngục” cả đám tù tự nguyện đều có mặt ở cái xứ tự do này, muốn hâm nóng
một cuộc tình là điều nên làm lắm lắm. Bên cạnh đó, hễ đôi uyên ương nào
tổ chức tiệc “Anniversary”, mà mời ông bà là không bao giờ ông từ chối,
luôn đến để chúc mừng.
“Tình
nồng thắm xuyên qua bao tháng năm” mà lị. Dù suốt trong chiều dài chung
sống, có lắm ba chìm bảy nổi, chín cái lênh đênh (chưa kể vô số cái
lang thang) có đúng một phần nào trong những lời ca ông vừa …phóng tác,
âu đó cũng là thể hiện tình yêu, tính...nể vợ, hay nói một cách khác:
một sự nhịn chín sự lành, một nét đặc thù dễ thương từ truyền thống của
ông cha dưới chế độ mẫu hệ ngàn xưa - quí vị đàn ông chìu vợ đáng được
tuyên dương! phải được phát bằng tưởng lục. Kỳ này đi dự tiệc
“anniversary” của người bạn ông phải hát tặng họ bản nhạc này, chúc họ
sống mãi bên nhau. Tình yêu muôn năm, vợ chồng vạn tuế!!.
“Một đời ta trao trọn cho vợ nhà
Trọn đời ta lo dạy đàn con
Bao nhiêu năm chung sống hàng ngày
Mối tình của vợ để lại cho ta
Mối tình của vợ là một khối...Tình Nồng”……
Không có nhận xét nào:
Đăng nhận xét