1* Tổng quát
Dinh Độc Lập là "chứng
nhân" đã chứng kiến những biến cố lịch sử của Việt Nam Cộng Hoà, từ
những cuộc đảo chánh, cách mạng của chính trị miền Nam. Còn gọi là Dinh
Tổng Thống hay Phủ Đầu Rồng.
Dinh Độc Lập (DĐL) là
nơi cư ngụ và làm việc của Tổng thống Việt Nam Cộng Hòa. DĐL có hai kiến
trúc, kiến trúc cũ được xây dựng ngày 23-2-1868, có tên là Dinh
Norodom, sau đổi thành Dinh Độc Lập.
Kiến trúc mới do kiến trúc sư Ngô Viết Thụ thiết kế và thực hiện xây dựng dưới thời Tổng thống Ngô Đình Diệm.
Cánh cửa của DĐL bị xe
tăng của Cộng Sản Bắc Việt húc sập vào buổi sáng ngày 30-4-1975 đánh dấu
ngày nước Việt Nam Cộng Hoà lọt vào tay Cộng Sản Bắc Việt. Từ đó, DĐL
được đổi tên thành Dinh Thống Nhất.
2* Vài nét lịch sử của Dinh Độc Lập
2.1. Thời Pháp thuộc
Ngày 23-2-1868, Thống
đốc Nam Kỳ Lagrandière làm lễ đặt viên đá đầu tiên xây dựng Dinh Thống
Đốc Nam Kỳ. Viên đá lịch sử lấy từ núi Châu Thới Biên Hòa, hình vuông,
mỗi gốc rộng 50cm, có lổ, bên trong chứa những đồng tiền bằng vàng, bạc,
đồng có in hình Napoléon Đệ Tam.
Diện tích công trình
rộng 12 mẫu tây. Mặt tiền rộng 80m. Bên trong có phòng khách chứa đến
800 người. Do nước Pháp có chiến tranh, công trình kéo dài đến năm 1863
mới xong. (1868-1863=5 năm)
Dinh được đặt tên là
Dinh Norodom và đại lộ trước dinh cũng mang tên Norodom, là tên của dòng
họ cai trị vương quốc Campuchia. Dinh Norodom là nơi ở và làm việc của
Thống đốc Nam Kỳ, người Pháp.
Ngày 9-3-1945, Nhật đảo chánh Pháp, dinh Norodom là nơi làm việc của chính quyền Nhật Bản ở VN.
2.2. Thời Việt Nam Cộng Hoà
Ngày 7-9-1954, Dinh Norodom được Đại tướng Paul Ely bàn giao lại cho Thủ tướng Ngô Đình Diệm.
Năm 1955, Tổng thống Ngô
Đình Diệm đổi tên thành Dinh Độc Lập. Từ đó, DĐL là nơi ở và làm việc
của Tổng thống Đệ Nhất và Đệ Nhị Cộng Hoà.
Phủ Đầu Rồng
Báo chí gọi DĐL là Phủ
Đầu Rồng, vì Tổng thống Nguyễn Văn Thiệu lấy quốc huy là hai con rồng
trong bức hình lưỡng long tranh châu. Các nhà tướng số, phong thủy lại
tán ra rằng, DĐL là cái đầu của con rồng, mà cái đuôi của nó dài ra tới
Công trường Chiến sĩ ở ngã tư Duy Tân- Trần Quý Cáp. Họ cho rằng, muốn
được yên vị ở cái đầu con rồng là DĐL, thì phải trấn ếm cái đuôi của nó,
để cho nó không còn khả năng vùng vẫy quậy phá gây bất ổn.
Sau đó, tượng đài chiến
sĩ vô danh của Pháp để lại bị đập phá và xây lại một cái tháp cao, đặt
giữa cái hồ nước tròn, có một con rùa bằng đồng nằm dưới chân tháp, cho
nên gọi là Hồ con rùa.
Ngày 27-2-1962, hai phi
công VNCH là Nguyễn Văn Cử và Phạm Phú Quốc lái hai chiếc phi cơ A-1
Skyraider ném bom làm sập bộ phận chính bên trái của dinh. Do không có
thể hồi phục lại được, nên Tổng Thống Diệm cho đập phá toàn bộ để xây
lại dinh thự mới trên nền đất cũ, theo đồ án thiết kế của kiến trúc sư
Ngô Viết Thụ.
2.3. Dinh Độc Lập mới
Ngày 1-7-1962, Dinh Độc
Lập mới được khởi công xây dựng. Thời gian nầy, Tổng thống Ngô Đình Diệm
chuyển sang cư ngụ và làm việc ở Dinh Gia Long.
Công trình xây dựng đang tiến hành thì Tổng thống Diệm bị đảo chánh và bị giết vào ngày
2-11-1963. Như vậy, Tổng thống Diệm chưa được vào ở và làm việc ở DĐL do ông cho xây cất.
Ngày 31-10-1966, Trung
tướng Nguyễn Văn Thiệu, Chủ Tịch Ủy Ban Lãnh Đạo Quốc Gia, chủ tọa lễ
khánh thành DĐL. Tổng thống Thiệu ở và làm việc tại đó từ tháng 10 năm
1967 cho đến ngày 21-4-1975.
Ngày 8-4-1975, Trung úy phi công Nguyễn Thành Trung lái phi cơ F-5E ném bom DĐL, thiệt hại không đáng kể.
Tổng thống Trần Văn
Hương cũng vào làm việc tại văn phòng Tổng thống trong dinh, trước khi
trao quyền lại cho Tổng thống Dương Văn Minh.
2.4. Dinh Độc Lập lọt vào tay Cộng Sản Bắc Việt
Ngày 30-4-1975, xe tăng CSBV húc sập cánh cửa DĐL đánh dấu sự sụp đổ của chế độ Việt Nam Công Hoà.
3* Kiến trúc của Dinh Độc Lập
Dinh Độc Lập là một công
trình kiến trúc độc đáo của kiến trúc sư (KTS) Ngô Viết Thụ. Được khởi
công ngày 1-7-1962 và khánh thành ngày 31-10-1966. KTS Ngô Viết Thụ muốn
cho công trình của mình mang một ý nghĩa văn hoá. Từ nội thất cho đến
mặt tiền đều tượng trưng cho một triết lý cổ truyền, nghi lễ Đông phương
và cá tính dân tộc.
Công trình thể hiện sự
kết hợp hài hoà giữa nghệ thuật hiện đại với kiến trúc Đông phương. Toàn
thể mặt tiền của dinh mang hình chữ “Cát” trong chữ Hán, có nghĩa là
tốt lành, may mắn. Ngoài ra, từng phần của dinh có mang những chữ: Khẩu,
Trung, Tâm và Hưng. Những đốt của cây trúc bằng gạch đá, tạo thành một
bức rèm thanh tao bao quanh lầu hai.
Bên trong, những đường
nét kiến trúc đều dùng những đường ngay, kéo thẳng, mang ý nghĩa ngay
thẳng, quang minh chính đại.Trước sân dinh, thảm cỏ hình bầu dục, đường
kính dài 102m. Màu xanh rì của thảm cỏ tạo cảm giác êm dịu, sảng khoái.
Báo chí thời đó cho biết, cỏ phải mua từ Nhật mang về.
Một hồ nước hình bán
nguyệt, có thả hoa sen, hoa súng gợi lên hình ảnh những hồ nước yên ả ở
các ngôi đình, chùa cổ kính Việt Nam ngày xưa.
Dinh có diện tích 120,000 mét vuông, có 4 khu nhà.
Khu nhà chính hình chữ
“T”, diện tích mặt bằng 4,500 mét vuông, cao 26m. Đây là nơi ở và làm
việc của tổng thống. Khu nầy có 3 tầng, tầng hầm, tầng nền và lầu hai.
Có 2 gác lửng và một sân thượng làm bãi trực thăng.
Khu nhà chính có 95 phòng, mỗi phòng có công dụng riêng. Kiến trúc và trang trí mỗi phòng phù hợp với mục đích xử dụng.
Phòng họp nội các, phòng
đại yến, phòng khách nước ngoài, phòng tiếp khách trong nước, phòng
trình quốc thư, phòng làm việc của tổng thống, phòng tiếp khách của phó
tổng thống. Một khu quân sự gồm có đài phát thanh, phòng trực chiến của
tổng thống, phòng bản đồ…phòng giải trí. Có một hầm ngầm để điều khiển
hành quân.
Kinh phí xây dựng khá tốn kém, tương đương 15,000 cây vàng.
Trang thiết bị trong
dinh hiện đại nhất thời đó. Lễ lạc quy tụ cả ngàn người. Hệ thống điều
hòa không khí, thang máy, thông tin liên lạc nội bộ, nhà bếp, kho bãi
như một khách sạn 5 sao thứ lớn.
Đặc biệt, một tổng hành
dinh ngầm dưới mặt đất là một khối hầm bằng bê tông dầy bọc thép, chịu
đựng được bom thứ lớn và pháo kích, đáp ứng phòng thủ tối tân nhất.
Có 4,000 ngọn đèn các loại, hàng chục tác phẩm nghệ thuật quý giá. Thảm, rèm, bàn ghế, vật dụng đều hạng nhất.
Dinh Độc Lập là một vật
chứng tiêu biểu, gắn liền với vận mệnh dân tộc, đồng thời cũng là một
kiệt tác nghệ thuật kiến trúc kết hợp hài hòa văn hoá Đông Tây.
3.1. Vài nét về kiến trúc sư Ngô Viết Thụ
Ngô Viết Thụ sinh ngày
17-9-1926 tại Thừa Thiên-Huế. Thời gian 1950-1955, là sinh viên ngành
kiến trúc tại trường Mỹ Thuật Quốc Gia Paris.(Pháp)
Năm 1955, ông nhận giải nhất , Giải Thưởng Lớn Roma, thường được gọi là Khôi Nguyên La Mã.
Giải La Mã (Prix de
Roma) là giải học bổng cho những sinh viên ngành nghệ thuật. Giải nầy
được thành lập thời vua Louis XIV. Đây là giải hàng năm cho nghệ sĩ (gồm
hội họa, điêu khắc và kiến trúc) tài năng, thông qua một cuộc thi sát
hạch. Người trúng giải được vào ở Cung điện Nancini do chi phí của nhà
vua Pháp tài trợ. Người đoạt giải sẽ được gởi đến Viện Hàn Lâm Pháp ở
Roma (Académie de France à Rome)
Năm 1960, KTS Ngô Viết Thụ về VN làm việc theo lời mời của Tổng thống Ngô Đình Diệm.
Năm 1962, ông là người Á châu đầu tiên trở thành Viện Sĩ Danh Dự của Viện Kiến Trúc Hoa Kỳ.
Ông đã thiết kế nhiều
công trình xây dựng mang sắc thái đặc biệt về kỹ thuật và mỹ thuật. Dinh
Độc Lập, Viện Đại học Huế, Làng Đại học Thủ Đức, Viện Nguyên Tử Đà Lạt,
Thương xá Tam Đa, tòa đại sứ VNCH ở Anh…Rất tiếc, một số công trình
quan trọng bị thay đổi thiết kế vì lý do kinh phí và nhiều lý do khác,
đã làm cho phong cách thiết kế của ông bị mất đi nhiều phần.
Ông qua đời ngày
9-3-2000 tại Sài Gòn. Một trong 8 người con của ông là Tiến sĩ Ngô Viết
Nam Sơn cũng là KTS và Đô thị gia, tốt nghiệp ở Hoa Kỳ, làm tư vấn thiết
kế và giảng dạy tại Bắc Mỹ.
4* Cuộc tấn công Dinh Độc Lập năm 1960
Dinh Độc Lập là nơi xảy ra những cuộc binh biến, đảo chánh, cách mạng, cho nên đã từng bị ném bom, bắn phá.
Cuộc đảo chánh năm 1960
là cuộc đảo chánh đầu tiên của nước Việt Nam Cộng Hoà, xảy ra tại Dinh
Độc Lập cũ, có tên là Dinh Norodom thời Pháp thuộc.
Lúc 5 giờ sáng ngày
11-11-1960, lực lượng đảo chánh gồm có các đơn vị Nhảy Dù bao vây Dinh
Độc Lập, sau khi khống chế và uy hiếp các cơ quan quân sự trọng yếu như
căn cứ Không Quân Tân Sơn Nhất, đài phát thanh Sài Gòn, Bộ Tư Lệnh Cảnh
Sát, doanh trại của Đội Phòng Vệ phủ Tổng Thống. Đồng thời họ đặt hầu
hết những tướng lãnh trong tình trạng quản thúc tại gia.
Nhiều loạt súng máy bắn
vào dinh làm bể cửa kiếng. Tổng thống Diệm suýt chết vì loạt súng máy
bắn qua cửa sổ, vào phòng ngủ, đạn ghim vào giường, nhưng thật may mắn,
ông đã rời giường ngủ vài phút trước đó.
Đội Phòng Vệ Phủ Tổng
thống có từ 30 đến 60 người, kháng cự mãnh liệt, đã bắn hạ 7 người vượt
rào băng qua sân cỏ. Quân đảo chánh ngừng bắn và siết chặt vòng vây.
Lúc 7 giờ 30 sáng, quân tăng cường đã tới, lực lượng đảo chánh mở cuộc tấn công nữa, nhưng đội Phòng Vệ bắn trả quyết liệt.
Lúc 8 giờ, 5 chiếc thiết giáp đi vòng ra phía sau dinh, bắn vào những trạm gác và pháo kích vào sân dinh.
Đến 10 giờ 30 thì tiếng súng ngừng hẳn. Tổng thống Diệm và ông bà Nhu đã xuống hầm.
Thiếu tướng Nguyễn
Khánh, Tham Mưu Trưởng, nghe tiếng súng nổ, ông tìm cách ra khỏi nhà,
đến DĐL bằng xe hơi dân sự, vượt qua rào ở ngỏ sau, vào gặp Tổng thống
Diệm. Quân đảo chánh canh gác trước nhà, không biết ông đã bí mật ra đi.
Ở dưới hầm, Tướng Khánh điều động quân đội về giải vây DĐL.
Đến trưa, nhiều nhóm dân chúng tụ tập bên ngoài DĐL, reo hò cổ võ quân đảo chánh và vẩy những biểu ngữ yêu cầu thay đổi chế độ.
Đài phát thanh Sài Gòn công bố là Hội Đồng Cách Mạng đã đảm trách vai trò chính phủ của miền Nam.
Quân đảo chánh do dự về bước kế tiếp, vì có sự tranh luận bất đồng ý kiến về vai trò tương lai của Tổng thống Diệm.
Vương Văn Đông chủ
trương thừa thắng xông lên tiến vào bắt sống Ngô Đình Diệm. Nguyễn Chánh
Thi thì trái lại, ông sợ Tổng thống Diệm có thể bị thiệt mạng trong
cuộc tấn công. Mặc dù ông Diệm có khuyết điểm, nhưng miền Nam không có
lãnh tụ nào vượt trội hơn ông cả.
Quân đảo chánh chỉ muốn
ông bà Nhu phải rời khỏi chính quyền, nhưng lại không đồng ý với nhau là
nên giết họ hay trục xuất ra nước ngoài.
Để đối phó, ông Diệm dung kế hoãn binh, câu giờ bằng cách đề nghị phe đảo chánh đàm phán để thành lập chánh phủ mới.
Quân đảo chánh muốn cử
Thiếu tướng Lê Văn Nghiêm, chỉ huy trưởng trường Võ Bị làm thủ tướng, vì
tướng Nghiêm không phải là người của đảng Cần Lao.
Đài phát thanh Sài Gòn cho phát đi lời tuyên bố của Đại tá Nguyễn Chánh Thi, cho rằng Ông Diệm đã bị truất phế vì độc tài.
Tổng thống Diệm lo ngại toàn dân sẽ nổi dậy, bèn cử bí thư là ông Võ Văn Hải sang thương thuyết với quân đảo chánh.
Đến xế chiều ngày 11-11-1960, Tướng Nguyễn Khánh rời DĐL đến gặp cấp chỉ huy đảo chánh để bàn về những yêu sách của họ.
Trung tá Vương Văn Đông,
Thiếu tá Nguyễn Huy Lợi muốn rằng, những sĩ quan và những chính khách
đối lập phải được bổ nhiệm vào nội các chính phủ. Đồng thời, yêu cầu Đại
tướng Lê Văn Tỵ phải được bổ nhiệm vào chức Bộ trưởng Quốc phòng.
Tổng thống Diệm điện hỏi Tướng Tỵ, đang bị quản thúc tại gia, ông Tỵ không chấp nhận chức Bộ trưởng QP.
Bác sĩ Phan Quang Đán,
phát ngôn nhân của đảo chánh, người chống ông Diệm quyết liệt, vì ông
Diệm đã xoá tên ông ra khỏi danh sách đắc cử dân biểu QH và chận đường,
không cho ông đến nhậm chức trong ngày lễ khai mạc. Bác sĩ Đán lên tiếng
trên đài phát thanh và tổ chức họp báo, trong khi quân đảo chánh hạ
những tấm hình của TT Diệm treo trên tường xuống và giẫm chân, chà đạp
lên nó.
Tướng Khánh trở lại DĐL,
tường trình những yêu cầu của quân đảo chánh và đề nghị TT Diệm nên
chia xẻ quyền hành. Bà Ngô Đình Nhu lớn tiếng phản đối việc đó, khiến
cho Tướng Khánh đe dọa rút lui, và ông Diệm buộc bà Nhu phải im tiếng.
Trong khi hai bên ngưng
chiến để thương lượng thì các đơn vị trung thành với Tổng thống Diệm có
đủ thì giờ điều động quân về tiếp cứu.
Đại tá Nguyễn Văn Thiệu, Tư Lịnh SĐ 5 BB, mang pháo binh từ Biên Hoà về Sài Gòn.
Ngày 12-11-1960
Đại tá Huỳnh Văn Cao,
TL/SĐ 7 BB ở Mỷtho, Đại tá Trần Thiện Khiêm, TL/SĐ 21 mang 7 tiểu đoàn
BB cùng với pháo binh của Trung tá Bùi Dzinh vể giải vây DĐL.
Tướng Khánh cũng thuyết
phục tướng Lê Nguyên Khang, TL/TQLC gởi tiểu đoàn 1 và tiểu đoàn 2 TQLC.
Biệt Động Quân ở Tây Ninh cũng về chống đảo chánh.
Tổng thống Diệm yêu cầu Tướng Khành tiếp tục thương lượng và tiếp tục ngưng bắn.
Sáng ngày 12-11-1960,
đài phát thanh Sài Gòn phát đi bản tuyên bố của TT Diệm, hứa hẹn sẽ có
bầu cử tự do, công bằng và các biện pháp tự do khác, như chấm dứt kiểm
soát báo chí…sẽ hợp tác với Hội Đồng Cách Mạng để thành lập chánh phủ
liên hiệp.
Cuộc tấn công trì hoãn 36 tiếng đồng hồ.
Tại Phú Lâm ngày 12-11-1960
Phú Lâm là cửa ngỏ vào
thủ đô từ miền Tây, cuộc giao tranh chớp nhoáng xảy ra nhưng rất khốc
liệt với khoản 400 người chết, phần đông là dân chúng tò mò ra đường xem
đánh nhau. Quân đảo chánh bị đánh tan ở Phú Lâm và lực lượng cứu viện
tiến về DĐL.
Một số đơn vị đã vượt
qua khỏi vòng vây của quân đảo chánh, bằng cách nói dối rằng họ là quân
chống TT Diệm. Các đơn vị đó bố trí chung quanh dinh xong, thì quay súng
lại tấn công bất ngờ quân đảo chánh. Hai bên “trao đổi hoả lực” cho
nhau khoảng vài tiếng đồng hồ, quân đảo chánh yếu thế, rút lui. Cuộc đảo
chánh bị dẹp tan.
Đại tá Nguyễn Chánh Thi,
Tr/t Vương Văn Đông, Phạm Văn Liễu cùng một số sĩ quan chạy vào phi
trường Tân Sơn Nhất nhờ Thiếu tá Nguyễn Cao Kỳ giúp đở.
Ông Thi nói “Kỳ, chúng tôi đã thất bại, chúng tôi muốn thoát khỏi nơi nầy, bằng không, sẽ bị xử tử.”
Thiếu tá Nguyễn Cao Kỳ
cho một chiếc C-47, thế là 15 người lên phi cơ do phi công Phan Phụng
Tiên lái. Phe đảo chánh bắt Tư Lịnh Biệt Khu Thủ Đô là Trung tướng Thái
Quang Hoàng đi theo làm con tin.
DĐL cử 2 chiếc khu trục
cơ đuổi theo chiếc C-47. Đến gần biên giới Campuchia thì bắt kịp. Hai
phi công gọi về xin chỉ thị. Lúc đó Tướng Khánh nghe bà Nhu đứng bên
cạnh lớn tiếng “Bắn rơi nó đi! Gi�t hết lũ Nhảy dù phản nghịch”. Nguyễn
Khánh không đồng ý với bà Nhu, ra lịnh cho 2 khu trục cơ trở về.
Đại úy Phan Lạc Tuyên cũng chạy đến Campuchia bằng đường bộ.
Thái tử Norodom Sihanouk
mừng rỡ đón chào tất cả, bởi vì Campuchia và VNCH thù nghịch nhau. Vì
Sihanouk làm ngơ để cho CSBV xử dụng lãnh thổ tấn công VNCH. Hơn nữa,
VNCH đã có ít nhất là 2 lần ám sát Sihanouk. Lần thứ nhất, Ngô Đình Nhu
gởi bom thư, lần thứ hai, Bộ trưởng Ngô Trọng Hiếu mua chuộc viên tướng
Campuchia làm đảo chánh lật đổ Sihanouk.
4.1. Tổ chức đảo chánh năm 1960
Kế hoạch do Trung tá
Vương Văn Đông chủ trương và tổ chức, với sự tham gia của Trung tá
Nguyễn Triệu Hồng (Anh vợ của Tr/t Đông), Thiếu tá Nguyễn Huy Lợi, Th/t
Phạm Văn Liễu, Th/t Nguyễn Kiến Hùng, Đại úy Phan Lạc Tuyên, Đ/u Nguyễn
Tiến Lộc, Đ/u Nguyễn Thành Chuẩn và những sĩ quan chỉ huy các đơn vị
tham gia đảo chánh. Đại tá Nguyễn Chánh Thi được mởi tham gia sau cùng.
Kế hoạch chuẩn bị một
năm. Tr/t Đông đã móc nối được một trung đoàn Thiết giáp, một đơn vị Hải
quân, 3 tiểu đoàn Dù, một số đơn vị TQLC và Pháo binh.
Phía chính trị gồm có:
Bác sĩ Phan Quang Đán, Nhất Linh Nguyễn Tường Tam, Trương Bảo Sơn, Phan
Bá Cầm (Nhân sĩ Hoà Hảo), Phan Đình Nghị và Nguyễn Đình Lý…
4.2. Lý do thất bại
Theo lời tường thuật của
nhà báo Stanley Karnow, người được giải Pulitzer Prize, tác giả cuốn
“Vietnam: A History”, thì nguyên nhân thất bại là không cắt được đường
dây liên lạc từ DĐL đến các bộ chỉ huy quân sự trong nước, cho nên Tổng
thống Diệm đã gọi các đơn vị về giải cứu. Vì thế, không giữ được đài
phát thanh và không giữ được các nút chận vào Sài Gòn.
Qua thất bại, chúng ta
thấy quân đảo chánh mắc kế hoãn binh của TT Diệm. Trình độ chính trị kém
là vội đàm phán trên mặt trận mà việc thắng bại chưa ngã ngũ, thương
lượng ở thế yếu, khi trong tay không có gì, tức là ở thế hạ phong. Không
có mục đích chủ yếu của cuộc đảo chánh cho nên có bất đồng ý kiến, gây
tranh cãi tại mặt trận đang sôi động quyết định sống chết. Không có
thống nhất chỉ huy, có lẻ vì lý do bảo mật.
4.3. Toà án xét xử
Mãi đến 2 năm sau, ngày
8-7-1963, Toà án Quân sự Đặc Biệt xét xử những người dính líu đến cuộc
đảo chánh ngày 11-11-1960 giữa lúc có vụ khủng hoảng Phật Giáo. Có lẻ TT
Diệm muốn cảnh cáo dằn mặt những người có ý định đảo chánh.
19 sĩ quan và 34 thường dân bị kết án.
7 sĩ quan và 2 dân sự đào thoát sang Campuchia bị kết án tử hình khiếm diện.
5 sĩ quan được tha bổng.
Những người còn lại bị kết án từ 5 năm đến 10 năm tù, đày đi Côn Đảo.
Cách đó không lâu, sau
cuộc Cách Mạng ngày 1-11-1963, Đệ Nhất Cộng Hoà bị sụp đổ, những người
bị tù được thả ra, và những người ở Campuchia trở về nước phục vụ lại
trong quân đội VNCH.
Lần đầu tiên, DĐL “chứng
kiến” cuộc binh biến, đánh dấu sự xáo trộn, mở màng cho những cuộc đảo
chánh làm suy yếu VNCH trên mặt trận chống Cộng sau nầy.
5* Vụ ném bom Dinh Độc Lập năm 1962
Lúc 7 giờ sáng ngày
27-2-1962, bầu trời Sài Gòn bị khuấy động bởi tiếng bom và tiếng súng
máy. Dinh Độc Lập chìm trong biển khói của cuộc tấn công từ hai chiếc
phi cơ ném bom A-1 Skyraider. Bom nổ, bom xăng đặc (Napalm), rocket và
đại lien trút vào dinh tổng thống. (dinh cũ)
Trong 30 phút, 4 trái
bom, 8 rocket và đạn đại liên đánh vào mục tiêu, phá sập bên cánh trái
của DĐL. Hai phi công là Thiếu úy Nguyễn Văn Cử và Trung úy Phạm Phú
Quốc, thuộc Phi đoàn 514 thuộc căn cứ Không Quân Biên Hoà.
Phi cơ của Phạm Phú Quốc
bị trúng 72 viên đạn 12 ly 7, trong đó, một viên trúng bình xăng nên
phi cơ phát cháy và rơi xuống sông Sài Gòn. Phạm Phú Quốc bị toán Người
Nhái Hải quân đến bắt. Nguyễn Văn Cử bay sang Campuchia.
Nguyễn Văn Cử là người
chủ mưu vì cha của Cử là ông Nguyễn Văn Lực, một lãnh tụ Việt Nam Quốc
Dân Đảng bị bắt giam vì hành động chống chính quyền của TT Diệm. Phạm
Phú Quốc, người Điện Bàn, Quảng Nam, là người bị Cử lôi cuốn.
Sau khi Đệ Nhất Cộng Hoà sụp đổ, Cử về nước, tiếp tục phục vụ trong Không quân.
Năm 1965, Trung tá Phạm Phú Quốc bị tử trận khi bay từ Đà Nẳng, vượt vĩ tuyến 17 ra đánh phá đường giao thông Hà Tĩnh.
Năm 1977, hài cốt của ông được người chị là Phạm Thị Xuân Cơ cải táng ở chùa Phước Lâm, Hội An, Quảng Nam.
Dinh Độc Lập bị đánh phá
lần thứ hai, thiệt hại nặng, nên phải đập phá và xây lại dinh mới theo
đồ án thiết kế của KTS Ngô Viết Thụ.
6* Nguyễn Thành Trung ném bom Dinh Độc Lập
6.1. Ném bom
Lúc 8 giờ 30 sáng ngày
8-4-1975, Trung úy phi công Nguyễn Thành Trung, từ Không đoàn 540 ở Biên
Hoà, bay về Sài Gòn ném bom Dinh Độc Lập. Phi cơ F-5E mang 4 trái bom
500 cân Anh và trang bị đại liên 20 ly. Lần đầu ném 2 quả nhưng không
trúng đích, quay lại, ném lần thứ hai, 2 quả trúng đích nhưng chỉ có một
quả nổ. Thiệt hại không đáng kể.
Nguyễn Thành Trung là Việt Cộng nằm vùng, sau khi ném bom, bay ra đáp xuống phi trường Phước Long do CSBV chiếm giữ.
6.2. Không được tin dùng
Sau năm 1975, Nguyễn
Thành Trung không được CS tin dùng, phải “ngồi chơi xơi nước” cho mãi
tới năm 1980 mới được giao nhiêm vụ, kiểm tra, đắp vá và sửa chửa những
chiếc phi cơ của VNCH bỏ lại. Đó là những phi cơ bị “thương tích” đủ
loại, nội thương, ngoại thương, trầy vi tróc vảy, bị văng miểng do pháo
kích, bị trúng đạn phòng không VC trên các mặt trận, nói chung là loại
“thương phế binh” bất khiển dụng.
Ở các công ty sản xuất
phi cơ Hoa Kỳ, người ta kiểm tra máy móc bằng các dụng cụ điện tử, nhưng
ở Hà Nội lúc đó, kiểm tra bằng mắt thường và sửa chữa bằng tay. Chỉ một
vết thủng nhỏ cũng đủ làm rớt máy bay, vì tốc độ phản lực tạo ra sự ma
xát cao độ bởi không khí, cho nên, vết thương lở loét tầy quầy ra đưa
đến cháy nổ.
Sửa chữa xong thì phải
bay thử. Mỗi lần bay như thế người lái xem như đem tánh mạng của mình ra
cá độ với may rủi, đùa giởn với tử thần, giống như chỉ mành treo chuông
vậy. Ngoài cái nguy hiểm đe dọa, tinh thần và danh dự bị tổn thương, vì
Nguyễn Thành Trung đã từng vẫy vùng lướt gió, làm chủ bầu trời, nhưng
bấy giờ chỉ được phép bay chung quanh phi trường trong 4 vòng rồi phải
xuống đất ngay. Khổ tâm là ở chỗ đảng không còn tin dùng người chiến sĩ
cách mạng nằm vùng nầy.
Một lần phản bội, biết đâu?...
7* Cửa Dinh Độc Lập bị húc sập
7.1. Xe tăng nào vào DĐL trước nhất?
Lúc 11 giờ 30 ngày 30-4-1975, xe tăng CSBV đã húc sập cánh cửa của dinh, đánh dấu sự sụp đổ của chế độ Việt Nam Cộng Hoà.
Vì sự tranh giành công trận, cho nên có nhiều tranh cãi xảy ra không dứt sau đó.
Chiếc xe tăng nào vào Dinh Độc Lập trước nhất?
Ai là người treo cờ của Mặt Trận Giải phóng ở DĐL?
Ai tiếp nhận sự đầu hàng của TT Dương Văn Minh?
Báo chí trong nước ghi nhận chiếc xe tăng số 843 với thủ trưởng Bùi Quang Thận vào sân dinh đầu tiên.
Theo David Butler, tác
giả cuốn The Fall of Saigon viết năm 1984, ghi lại lời tường thuật của
Neil Davis, một người Úc biết tiếng Việt, làm việc cho đài truyền hình
NBC, đã có mặt tại
DĐL trong lúc đó, thì chiếc xe tăng vào DĐL đầu tiên mang số 844.
Còn Oliver Todd thì ghi là chiếc xe tăng số 879 do Bùi Đức Mai lái đã ủi sập cánh cửa và vào trong sân trước nhất.
7.2. Ai nói?
Bùi Văn Tùng nói với Ông Dương Văn Minh “Các ông không còn gì để bàn giao. Ông chỉ có thể đầu hang vô điều kiện…”
Trong cuốn Tears Before
the Rain, xuất bản năm 1990, tác giả Larry Engelman đã phỏng vấn Đại tá
Bùi Tín, ông Tín nói ông là người gặp TT Dương Văn Minh và nói “Không có
vấn đề bàn giao quyền hành. Quyền hành của ông đã sụp đổ. Ông không còn
gì trong tay để bàn giao. Ông không thể chuyển giao cái mà ông không
có” (Larry Engelman)
8* Kết
Ngày
30-4-1975, Dinh Độc Lập mất. Nước Việt Nam Cộng Hoà mất, và người dân
miền Nam mất tất cả. Đổi tiền, Kinh tế mới, Trại tù cải tạo, đã làm mất
hết tiền bạc, nhà cửa và mất tự do. Một cuộc đổi đời thực sự bắt đầu.
Trước hết là Tư bản “mại sản”, nghĩa là đem bán hết những gì có thể bán
được, chỉ để lấy miếng ăn. Bán hết, thì xếp hàng mua gạo và ăn bo bo dài
dài.
Tháng tư năm 1975 là ngày tháng không bao giờ quên được, đối với những người còn trí nhớ.
Trúc Giang
Không có nhận xét nào:
Đăng nhận xét