Đồ án quy hoạch đầu tiên
Năm 1897, Toàn quyền Paul Doumer quyết định xây dựng một thành phố
trên cao nguyên Lâm Viên, nơi nghỉ mát dành cho những người Pháp tại
Đông Dương. Khi còn ở Hà Nội,
Paul Doumer đã cho thiết lập một “Chương trình xây dựng đầu tiên
cho Đà Lạt” với ý định : Đà Lạt sẽ trở thành nơi nghỉ dưỡng cho những
kiều dân và công chức với đường giao thông thuận lợi và dễ dàng; Đà Lạt
là một trung tâm hành chính và doanh trại quân đội quan trọng, sẽ quy tụ
một phần quân đội dự trù để được huấn luyện có đầy đủ sức khỏe, phòng
khi cần đến.[1]
Theo dự định của Paul Doumer khi đó, Đà Lạt sẽ là một thành phố hoàn
hảo với đầy đủ các công trình kiến trúc, công sở, trường học, doanh
trại quân đội...
Trong bản đồ quy hoạch, các công trình quan trọng như dinh Toàn
quyền, sở cảnh sát, tòa công sứ, khu công chính, bệnh viện, nhà ở công
chức, doanh trại quân đội, khu giải trí, trường học... đều đã được bố
trí rõ ràng .[2]
Nguồn nước được dự trù cho một đô thị 10 ngàn dân và có thể lên tới 40
ngàn trong tương lai. Điện sẽ được cung cấp từ một nhà máy thủy điện
công suất 2.760 mã lực ở
vùng thác Ankroet.[3] Những nét chính của đô thị tương lai được vạch theo các con đường mòn sẵn có của cư dân địa phương .
Thành phố được bố trí ở phía nam dòng suối Cam Ly, còn phần phía bắc dành cho doanh trại quân đội.[1] Trong dự định Paul Doumer, Đà Lạt không chỉ là nơi nghỉ mát mà còn đóng vai trò một trung tâm hành chính và giáo dục.[3] Thế nhưng Toàn
quyền Paul Doumer trở về Pháp năm 1902 khiến toàn bộ công trình xây
dựng bị dừng lại vì thiếu kinh phí, Đà Lạt bước vào một thời kỳ bỏ quên
kéo dài hơn 10 năm.[1]
Vào năm 1906, thời kỳ nơi đây vẫn còn là một địa điểm hoang vắng, thị trưởng đầu tiên của Đà Lạt Paul Champoudry đã thiết lập một đồ án tổng quát kèm theo Dự án chỉnh trang và phân lô cho thành phố trong tương lai.[1]
Áp dụng phương pháp quy hoạch phân khu chức năng rất mới lạ thời kỳ đó,
Paul Champoudry dự định thành phố sẽ nằm ở tả ngạn phía nam dòng suối
Cam Ly, nơi có địa hình phù hợp để xây dựng các công trình đô thị chính ,
còn phần hữu ngạn được dành cho doanh trại quân đội. Trung tâm hành
chính và dịch vụ công cộng sẽ cùng nằm trong một khu, thuận tiện cho
việc phục vụ và an ninh,
đồng thời giúp dễ dàng tạo dựng một bộ mặt đô thị khang trang.[4] Ở gần trung tâm thành phố, trung tâm thương mại và chợ sẽ được thiết lập, bên cạnh các khách sạn và khu giải trí.[5]
Theo dự định của Paul Champoudry, các con đường chính của thành phố sẽ
được thiết kế với bề rộng 20 mét, các đường hạng hai sẽ rộng 16 mét, còn
các nhánh đường phụ rộng 12 mét. Phần lớn đồ án này đã được thực hiện
và thành hình nên những nét chính của đô thị Đà Lạt ngày nay.[4]
Nhưng đến thập niên 1920, khi công cuộc kiến thiết thành phố được thực
hiện mạnh mẽ, Toàn quyền Đông Dương nhận thấy cần xây dựng một đồ án quy
hoạch mới để thay thế cho bản sơ phác của Champoudry.[4]
Đồ án của Hébrard
Năm 1921, Toàn quyền Maurice Long giao trách nhiệm cho kiến trúc sư
Ernest Hébrard thiết lập đồ án quy hoạch thành phố với nhiệm vụ
thiết kế: Phát triển Đà Lạt từ một nơi nghỉ mát thành thủ đô hành chính
của Liên bang Đông Dương khi cần thiết.[4]
Với nhiệm vụ này, Đà Lạt sẽ không chỉ bao gồm những cơ quan hành chính
của chính quyền trung ương mà còn phải đáp ứng đủ nhu cầu để thiết lập
các doanh trại quân đội. Sau hai năm nghiên cứu, tới năm 1923, kiến trúc
sư Ernest Hébrard hoàn thành đồ án, được Toàn quyền Maurice Long phê
duyệt và đưa vào áp dụng từ tháng 8 cùng năm đó.[4]
Đà Lạt của
Ernest Hébrard được quy hoạch theo quan điểm của các nguyên tắc “Quy
hoạch thành phố vườn” và “Quy hoạch thuộc địa”, sẽ là một thành phố
nghỉ mát miền núi kiểu mẫu.[4] Những vấn đề phức tạp trong việc phát triển đô thị Đà Lạt lần đầu được đặt ra và nghiên cứu một cách tổng hợp và kỹ lưỡng.[6]
Kiến trúc sư đặc biệt quan tâm tới việc bảo vệ cảnh trí và bố cục không
gian thẩm mỹ của thành phố. Trong đồ án, ý tưởng của Ernest Hébrard là
“thành phố trong cây cỏ và cỏ cây trong thành phố”, Đà Lạt sẽ là một đô
thị vắng bóng các ống khói công nghiệp.[4]
Trên một vùng thiên nhiên rộng lớn của cao nguyên Lâm Viên, Ernest
Hébrard bố trí thành phố trong một không gian vừa phải, khoảng 30 ngàn
hecta. Đó là diện tích hợp lý cho một đô thị 30 đến 50 ngàn dân và việc
xây dựng chỉ được phép trong phạm vi này.[6]
Đường vòng Lâm Viên chạy quanh thành phố, vừa là đường ranh giới, vừa
là đường giao thông phục vụ cho nhu cầu du lịch, ngoạn cảnh. Phía bên
ngoài ranh giới này, vùng thiên nhiên sẽ được giữ gìn hoang sơ, hoàn
toàn không có sự hiện diện của các công trình xây dựng.[6]
Điểm nổi bật trong đồ án của kiến trúc sư Ernest Hébrard là phương án giải quyết vấn đề cảnh quan đô thị.[6]
Tác giả sử dụng dòng suối Cam Ly như trục cảnh quan trung tâm, kết hợp
cùng hệ thống các hồ nhân tạo nằm uyển chuyển theo địa hình với những
con đường bao quanh men theo sườn các thung lũng. Bố cục chính của thành
phố được tổ chức dựa trên trục cảnh trí này, mỗi hồ nước là một trung
tâm của các công trình trong một phân khu chức năng.[7]
Trục đường xương sống kéo dài từ nhà ga xe lửa tới thác Cam Ly, dựa
theo đường
đỉnh của địa hình. Đứng trên tuyến đường này nhìn về phía bắc sẽ thấy
một quang cảnh với hồ Xuân Hương, đồi Cù, một cánh rừng trải dài và núi
Lang Biang ở cuối phía xa.[7]
Trung tâm công cộng của thành phố được bố trí trên một đoạn của
trục đường chính, các công trình tòa thị chính, ngân khố, sở cảnh sát,
bưu điện... nằm bao quanh một công trường .[7]
Bên cạnh đó còn có thể thấy nhà thờ, trường học, thư viện, các khách
sạn, văn phòng du lịch... cùng khu thương mại của người Pháp. Dinh Toàn
quyền, Cao ủy phủ và Viện điều dưỡng nằm xa hơn về phía tây nam trên một
ngọn đồi cao, khu vực Dinh III ngày nay.[8]
Phía nam suối Cam Ly, các đường Trần Hưng Đạo, Quang Trung, Phan Chu
Trinh, ... là khu vực
biệt thự dành cho người Pháp, được phân lô thành ba hạng: từ 2.000 m²
đến 2.500 m², từ 1.000 m² đến 1.200 m² và từ 500 m² đến 600 m². Khu dân
cư người Việt được phân phối một phần ở phía đông khu trung tâm, còn
phần lớn tập trung quanh khu vực làng Việt Nam cũ phía hạ lưu hồ.[8]
Trong khu vực này sẽ có các công trình như chợ, trường học, bệnh viện,
lò sát sinh, công viên, chùa chiền. Các dãy nhà liền căn được phép xây
cất trong khu thương mại nhưng bị hạn chế xây dựng trong những khu dân
cư.[8]
Nhà ga và đường xe lửa được bố trí gần lối vào của quốc lộ 20B, bên
cạnh đó là khu vực dự tính dành cho các khách sạn, kho hàng hóa và một
số công xưởng.[8]
Đồ án quy hoạch của Ernest Hébrard ra đời năm 1923 và được áp dụng
trong vòng gần 10 năm. Đến thập niên 1930, khi cuộc Đại khủng hoảng diễn
ra, nền kinh tế khó khăn khiến giá trị áp dụng của đồ án Ernest Hébrard
cần được xem xét lại.[9]
Đồ án của Pineau
Dự trù Đà Lạt trở thành thủ đô của Liên bang Đông Dương đã không
thành hiện thực, đồ án của Ernest Hébrard với tham vọng quá lớn trở nên
không thực tế. Mặt khác, sau gần 10 năm thực hiện đã có những vấn đề
phát sinh.[10]
Hồ Xuân Hương trở thành trung tâm của thành phố khiến việc phân lô biệt
thự phía bắc hồ đe dọa làm hỏng tầm nhìn về phía Lang Biang. Khu vực
dành cho người Pháp và người Việt không còn đáp ứng đủ nhu cầu. Ngoài
dự tính của Ernest Hébrard, từ thập niên 1930, nhiều khu biệt thư như
Saint Benoit, Cité Decoux, Cité Bellevue..... có khuynh hướng phát triển
về hướng bắc.[10]
Khu vực rừng cảnh quanh và các khu nhượng địa trong trung tâm chiếm một
diện tích quá lớn, làm trở ngại việc phát triển các trung tâm khác. Năm
1933, kiến trúc sư Louis Georges Pineau đã trình bày một nghiên cứu mới
về “Chỉnh trang thành phố Đà Lạt”.[11]
Khác với đồ án của Ernest Hébrard, kiến trúc sư
Louis Georges Pineau đưa ra một quan niệm thực tế hơn: Đà Lạt trước mắt
chưa là thủ đô hành chính hay thủ đô mùa hè của Liên bang Đông Dương,
chương trình phát triển thành phố vì thế cần được giới hạn lại.[11]
Trong nghiên cứu của Louis Georges Pineau, nguyên tắc vẫn là vấn đề
bảo vệ cảnh trí đô thị. Kiến trúc sư đề nghị mở rộng hơn nữa các hồ nước
và công viên, thiết lập các khu vực xây dựng phù hợp
với cảnh trí và khí hậu địa phương.[11]
Để bảo vệ “tầm nhìn toàn cảnh cao nguyên với quang cảnh tuyệt vời”,
Louis Georges Pineau đề nghị tạo lập một vùng bất kiến tạo rộng lớn
hình rẻ quạt có gốc từ Đà Lạt và tỏa về hướng núi Lang Biang, trong khu
vực này sẽ là công viên rừng săn bắn hoặc công viên rừng quốc gia.[9] Tuy không được chấp thuận,[3]
nhưng một số ý tưởng của kiến trúc sư Louis Georges Pineau đã được lưu
ý và thực hiện sau này, đặc biệt cảnh trí đã được gìn giữ với những
khoáng địa rộng lớn, chờ đón những dự án đầu tư trong tương lai.[11]
Đồ án của Louis Georges Pineau vẫn đặc biệt hấp dẫn và được những người
kế nhiệm lưu tâm nghiên cứu trong những dự án chỉnh trang đô thị Đà Lạt
giai đoạn tiếp theo.[9]
Đồ án của Mondet
Vào năm 1940, kiến trúc sư H. Mondet đưa ra “Tiền dự án chỉnh trang
và phát triển Đà Lạt”, phần nào trở lại quan điểm của Ernest Hébrard
nhưng mang tính thực tế hơn. Mondet nhận xét: “Đà Lạt kéo dài quá mức từ
tây sang đông, về cơ cấu chưa tạo thành một thể thống nhất. Điều này
được lý giải vì người ta cảm thấy dễ dàng xây dựng dọc theo các con
đường chính. Có một sự e ngại quá đáng khi người ta muốn bảo vệ cảnh trí
bằng biện pháp mở rộng vùng cấm xây dựng quá lớn ở trung tâm thành phố.
Đó là một nghịch lý cần xem xét. Muốn phát triển thành phố mà lại ngăn
cấm xây dựng”.[12]
Kiến trúc sư Mondet đã đề
cập đến bài toán khó nhất cần giải quyết trong các đề án quy hoạch Đà
Lạt: xây dựng và phát triển thành phố, nhưng vẫn bảo vệ được cảnh quan.[13]
Mondet đề nghị không kéo dài thành phố, thay vào đó tổ chức họp
nhóm lại, mở rộng bằng cách ưu tiên sử dụng những lô đất gần trung tâm
và được phát triển chung quanh một trục. Những khoáng địa dành cho tương
lai chiếm một phần quan trọng ở ngay trung tâm đô thị.[12]
Theo dự tính của Mondet, khu vực phân lô biệt thự cho người Pháp sẽ gồm
1.000 lô, kể cả những lô sẵn có. Khu vực dành cho người bản xứ đáp ứng
khoảng 5.000 lô, khu ngoại ô gồm những khoáng địa rộng lớn được phân
tách khoảng 1.500 đến 2.000 lô. Dự án chỉnh trang đô thị được Mondet
chia thành bốn phần: giao thông, môi trường, khoáng địa và cây xanh, và
cuối
cùng là trung tâm công cộng.[12]
Mondet đề nghị giữ nguyên hướng và chiều rộng các con
đường nội thị, chỉ cần mở rộng tầm nhìn nơi các khúc quanh. Một số nút
giao thông chính và chuyển lối vào từ đèo Prenn đến Đà Lạt cần bố trí
lại ở vị trí mà du khách sẽ được chiêm ngưỡng toàn cảnh thành phố khi
đặt chân đến Đà Lạt.[13]
Hai bờ dòng suối Cam Ly cần chỉnh trang, có biện pháp dẫn dòng hợp lý
hơn khi nước thoát ra từ hồ và xây dựng thêm một hồ tại thung lũng gần
nhà ga xe lửa. Những khu vực khoáng địa vẫn được tôn trọng và được tổ
chức thành những công viên, vườn trẻ, sân chơi thể thao, câu lạc
bộ... nhưng vẫn giữ tính bất kiến tạo cho khu vực này. Các trung tâm
công cộng, hành chính được dự trù hợp nhóm lại, còn trung tâm giải trí
thể thao sẽ nằm ở phía nam Grand Lac, tức hồ Xuân Hương.[13]
Tuy không được áp dụng, nhưng nhiều ý kiến của Mondet trong bản tiền dự
án đã được các nhà quy hoạch kế tục chọn lọc sử dụng trong các bản đồ
án sau này.[14]
Đà Lạt đầu thập niên 1940 đã là một đô thị xinh đẹp, hài hòa với
những viễn cảnh rộng rãi và các khu vực được xây cất hoàn hảo. Nhưng Thế
chiến thứ hai bùng nổ khiến dòng người tìm đến Đà Lạt ngày một đông,
thành phố trở nên chật hẹp bởi sự phát triển quá độ và thiếu tổ chức,
một vài khu dân cư được dựng lên gấp rút và tạm bợ.[14]
Toàn quyền Jean Decoux quyết định phải thiết lập một “Chương trình
chỉnh trang và phát triển Đà Lạt” có hiệu lực pháp lý để điều chỉnh sự
phát triển của thành phố theo một trật tự hợp lý và hài hòa. Nhiệm vụ
này được giao cho Sở Quy hoạch Đô thị và Kiến trúc
Trung ương nghiên cứu thực hiện.[15]
Đồ án của Lagisquet
Ngày 27 tháng 4 năm 1943, đồ án chỉnh trang Đà Lạt của kiến trúc sư Jacques Lagisquet cùng
nhóm nghiên cứu được Toàn quyền Jean Decoux chấp thuận và đưa vào áp
dụng. “Chương trình chỉnh trang và phát triển Đà Lạt” được nghiên cứu
theo những hướng tổng quát, từ đó ban hành các chương trình, quy chế cụ
thể có tính pháp lý để thực hiện và phát triển thành phố một cách hài
hòa hợp lý, từ tổng thể đến các chi tiết.[12]
Giống như Mondet, kiến trúc sư Jacques Lagisquet nhận thấy Đà Lạt có
hình thể quá mảnh
mai, khu gia cư không có bề sâu, thành phố thiếu đi sức sống và không
có trung tâm hoạt động hấp dẫn để thu hút dân chúng. Các khu vực thương
mại và trung tâm hành chính nằm phân tán, hầu như không đáp ứng được nhu
cầu đương thời.[15]
Trái lại, Đà Lạt theo đồ án của Jacques Lagisquet sẽ được tổ chức thành
một thể thống nhất, tập trung chung quanh hai trục đường khung sườn của
thành phố và sự phát triển được dự tính sẽ về phía nam suối Cam Ly,
theo hướng tây và tây bắc.[16]
Trung tâm hành chính được tập trung lại theo trục chính, các cơ
quan quan trọng được bố trí quanh hồ Xuân Hương: Văn phòng Toàn quyền
nằm ở bờ đông, vị trí khách sạn Công đoàn ngày nay, Tòa thị chính ở bờ
bắc và phía nam sẽ là Dinh Toàn quyền. Trung tâm thương mại của thành
phố được tách thành hai khu vực: khu thương mại người châu Âu , gần bưu
điện hiện nay, còn khu Hòa Bình dành cho hoạt động thương mại của người
Việt.[16]
Khu vực khách sạn nằm bên hồ Xuân Hương, có tầm nhìn hướng về
phía hồ và núi Lang Biang, bên cạnh đó sẽ là khu giải trí và câu lạc bộ.
Các trường học nằm rải rác trong thành phố và những cơ sở lớn đều có
diện tích đất dự trù để phát triển.[16]
Trung tâm văn hóa với thư viện, bảo tàng... được thiết lập ở khu vực
trung tâm thành phố. Jacques Lagisquet dự trù một diện tích 540 hecta
với khoảng 2.200 lô đất gần các trung tâm công cộng sẽ dành cho biệt thự
của người châu Âu.[17]
Vấn đề khu dân
cư người Việt – cho đến khi đó chỉ được bố trí ở những khu nhà tạm, khu
vực phụ của thành phố – được giải quyết bằng nhiều phương án, dựa trên
tính chất nghề nghiệp của người dân. Trước tiên, một khu thương mại với
những dãy nhà phố nằm quây quần quanh chợ, tiếp đến khu biệt thự song
lập và nhà liên kế dành cho công chức và thợ thủ công, những người vì
công việc vẫn cần được bố trí gần trung tâm thành phố.[17]
Sau cùng, một vùng ngoại ô phía tây bắc và đông nam được dành cho các
thôn ấp Việt Nam với dáng dấp nông thôn, quần tụ các gia đình sản xuất
nông nghiệp hoặc làm các nghề thủ công. Người dân ở đây được
tự do xây cất nhà cửa theo dạng nhà của miền quê Việt Nam mà không hề
ảnh hưởng đến kiến trúc cảnh quan chung của thành phố.[17]
Để bảo vệ tầm nhìn về núi Lang Biang, Jacques Lagisquet tiếp tục duy
trì những khoảng trống rộng lớn hình rẻ quạt với gốc ở hồ Xuân Hương,
hướng về phía bắc. Một phần diện tích trong khu vực này được dành cho
các công viên, sân golf, sân thể thao, sân cắm trại của thanh thiếu
niên... vẫn bảo đảm tính bất kiến tạo của toàn bộ khu vực.[18]
Về chức năng đô thị, đồ án Lagisquet đã làm rõ và nổi bật các đặc
tính riêng của Đà Lạt: trung tâm hành chính trung ương, thành phố nghỉ
dưỡng, thành phố học đường, trung tâm văn hóa...[19]
Kiến trúc sư Jacques Lagisquet đã giải quyết được vấn đề mâu thuẫn giữa
tính tập trung của đô thị và tính tản mát của một thành phố vườn.[18]
Các phân khu chức năng được tổ chức hợp lý, phù hợp với thực tế và xác
định cụ thể phạm vi của những không gian trống, những khu vực bất kiến
tạo để bảo vệ cảnh trí thiên
nhiên. Đồ án của Jacques Lagisquet cũng giải quyết nhu cầu nhà ở cho
những di dân đang ngày một đông với những loại hình cư trú phù hợp với
nghệ nghiệp của họ.[20]
Đà Lạt thời kỳ này bước vào giai đoạn cực thịnh của thời Pháp thuộc,
nhiều công trình công cộng và tôn giáo tiếp tục xuất hiện, các ngôi chùa
Linh Sơn, Linh Quang với nét kiến trúc Á Đông làm phong phú thêm kiến
trúc cảnh quan của thành phố.[20] Giai đoạn từ 1954 đến 1975
Vào năm 1945, Đà Lạt đã có trên một ngàn biệt thự kiểu dáng phong
phú, đa số được thiết lập theo trường phái kiến trúc địa phương Pháp và
sử dụng những nguyên vật liệu tại chỗ như gạch, ngói, gỗ, đá... Mỗi ngôi
biệt thự đều có khuôn viên rộng rãi, hợp thành một tổng thể đầy duyên
dáng và đặc biệt.[19]
Nhưng trong khoảng thời gian từ 1945 đến 1954, tình hình chính trị
nhiều biến động phức tạp, giao thông trở ngại, dân số xáo trộn bởi những
cuộc tản cư, Đà Lạt không có thêm nhiều công trình mới.[19]
Sau Hiệp định
Genève năm 1954, người Pháp rời khỏi Đông Dương, Việt Nam bị chia cắt
thành hai miền, Đà Lạt bước vào một giai đoạn phát triển mới với dân số
đông hơn.
Dưới thời Đệ nhất Cộng hòa Việt Nam, chính quyền Tổng thống Ngô
Đình Diệm có kế hoạch phát triển Đà Lạt tương đối quy mô, vấn đề chỉnh
trang đô thị và xây dựng các công trình công cộng được đặc biệt lưu tâm.[19]
Với điều kiện tự nhiên độc đáo, Đà Lạt được xác định không chỉ là nơi
nghỉ mát dành cho tầng lớp thượng lưu mà còn là một đô thị dành cho mọi
người dân tới định cư, sinh sống. Thành phố khi đó được trở thành một
trung tâm giáo dục lý tưởng, một địa điểm huấn luyện quân sự, nơi đào
tạo và phát triển tôn giáo, và cũng là một vùng canh tác
nông nghiệp
.[21]
Nhằm ổn định cho một bộ phận di dân đang xuất hiện ngày càng đông,
những ấp nông nghiệp mới như Thánh Mẫu, Tùng Lâm, Thái Phiên, Đa
Thiện... đã được hình thành.[22]
Trong khi chờ đợi thiết lập một đồ án quy hoạch mới, chính quyền tiếp
tục áp dụng đồ án của Jacques Lagisquet cùng một “Chương trình địa
dịch”, nghiên cứu biên soạn lại phù hợp với điều kiện thực tế để giải
quyết nhu cầu xây dựng và đảm bảo tính liên tục của quyền tư hữu đất
đai, bất động sản. Việc xây dựng các công trình công cộng, các sơ sở tôn
giáo, quân sự... được tính toán dựa trên những phần đất công sản còn
lại.[21]
Bộ mặt đô thị thời kỳ này được bổ sung bởi những công trình mang dáng
vẻ hiện đại và do các kiến trúc sư Việt Nam thiết kế, như Viện Đại học
Đà Lạt, Trường Võ bị Quốc gia, Trung tâm Nghiên cứu Nguyên tử, chợ Đà
Lạt, Giáo hoàng Chủng viện.[21]
Thập niên 1960, Đà Lạt một lần nữa chịu tác động bởi những biến cố
chính trị. Cuộc đảo chính năm 1963 khiến dự án phát triển thành phố phải
dừng lại sau một thời gian ngắn tiến hành.
Khi cuộc chiến tranh Việt Nam ngày càng trở nên khốc liệt, các sỹ
quan quân sự được chỉ định thay thế những nhà cầm quyền dân sự, việc
xây dựng và quy hoạch thành phố ít được coi trọng.[23]
Tuy vậy, bên cạnh các công trình quân sự, Đà Lạt thời kỳ này cũng có
thêm một vài công trình mới cùng các nhà hàng, khách sạn mọc lên ở trung
tâm thành phố.[21]
Nhưng do thiếu định hướng quy hoạch tổng thể, không ít công trình được
xây cất vội vã đã ảnh hưởng nghiêm trọng đến vẻ đẹp hài hòa với thiên
nhiên cũng như sự phát triển cân đối của
toàn thành phố.[24]
Vào năm 1967, vấn đề môi sinh của Đà Lạt được các học giả đương
thời lên tiếng báo động. Năm 1973, một đề án quy hoạch chỉnh trang Đà
Lạt được thiết lập, trong đó nhấn mạnh đến các biện pháp bảo vệ môi sinh
cho thành phố, đặc biệt ở khu vực lưu vực của hồ Xuân Hương.[25]
Cảnh quan đô thị Đà
Lạt giai đoạn này còn chịu ảnh hưởng xấu bởi nạn xây cất bất hợp pháp.
Cùng với một số quan chức thế lực chiếm dụng đất, nhiều thương phế binh
của Quân đội Việt Nam Cộng hòa cũng đòi quyền lợi, xây dựng những ngôi
nhà tạm bợ ở ngay trung tâm thành phố, một số người khác chiếm đất làm
vườn ở những khu vực như ấp Ánh Sáng, khu Thao Trường.[21]
Hiện tượng xã hội này trở thành một vấn đề nan giải trong việc quy
hoạch và bảo vệ nét thẩm mỹ của Đà Lạt, vẫn tiếp tục tồn tại trong những
giai đoạn tiếp theo
Không có nhận xét nào:
Đăng nhận xét