Lòng hào hiệp và Thói tiểu nhân
Có
một câu chuyện xảy ra trong giai đoạn gần cuối Đệ Nhị Thế Chiến liên
quan đến lòng hào hiệp của Trung úy phi công Franz Stiegler của
Luftwaffe (Không Quân Đức) đã tha mạng cho do Trung úy phi công Charles
Brown cùng phi hành đoàn 10 người trên một oanh tạc cơ Hoa Kỳ đang khốn
đốn trên bầu trời. Điều đáng khâm phục là câu chuyện đó do chính Trung
úy Brown kể lại. Tại sao lòng hào hiệp của viên phi công Đức đó khiến
cho người Mỹ tôn vinh? Vì mặc dù vẫn biết Brown đang đi dội bom nước
Đức, vẫn biết tha cho địch là mất cơ hội được trao tặng huy chương cao
quý và có thể bị đưa ra trước tòa án quân sự
để lãnh án tử hình, nhưng Trung úy Franz Stiegler vẫn chấp nhận do lòng
hào hiệp.
Trong
tác phẩm Tâm Hồn Cao Thượng thuộc loại sách chuyện dành cho trẻ em do
Hà Mai Anh dịch từ nguyên tác Les grands coeurs của văn hào Edmond De
Amicis người Ý, Chương Sáu với tựa đề Lòng Hào Hiệp kể về Crotsi, một
cậu học sinh nghèo tàn tật vì bị chọc ghẹo chế giễu nên đã không dằn
được sự nóng giận và đã ném lọ mực văng trúng thầy. Người bạn tốt của
Crosti là Garoné đứng ra nhận tội thế nhưng vị thầy không tin. Thế rồi
Crotsi thú nhận tội. Thầy mắng mấy đứa học trò quỉ quái đã chọc giận và
ăn hiếp kẻ yếu như sau: “Các anh đã vô cớ lăng mạ một người bạn không
trêu chọc các anh. Các anh đã
chế giễu một người tàn tật. Các anh đã xúc phạm một đứa trẻ yếu đuối
không tự vệ được. Các anh đã làm một điều hèn hạ đáng xấu hổ,
một điều có thể làm nhơ nhuốc đến phẩm giá của con người, các anh là
những đồ đê tiện!” Nghe vậy, Garoné xin thầy tha thứ cho mấy đứa học trò
quỉ đầu gấu hay bắt nạt. Đó là một tấm gương của lòng hào hiệp, là lối
cư xử của người quân tử.
Khái niệm quân tử và tiểu nhân đều có mặt trong mọi nền văn hóa Đông phương hay Tây phương.
Nho
giáo Trung Hoa phân chia con người trong xã hội ra làm hai tầng lớp
quân tử và tiểu nhân. Sự phân định này có thể do Khổng Tử đề ra hoặc đã
xuất hiện từ giữa đời Chu trước Khổng Tử. Từ đời Chu cho đến thời Chiến
quốc, hai chữ “quân tử” (Jūnzǐ 君子) được
dùng để chỉ lớp đại trượng phu và quý tộc có ý nghĩa tương đương với
“gentleman” của Anh ngữ. Những tầng lớp khác trong xã hội đều là Tiểu
nhân. Quân tử và Tiểu nhân chỉ là phép định danh theo địa
vị xã hội cổ xưa; ý nghĩa của chúng đã biến đổi theo thời gian. Ngày
nay, quân tử mang ý nghĩa hào hiệp cao thượng trong khi tiểu nhân ngày
nay đồng nghĩa với tâm tính hèn hạ.
Luận về bậc đại trượng phu, quân sư của Tào Tháo là Trình Dục cho rằng đại
trượng phu là người hội đủ ba đức tính: 1) Không nỡ hiếp đáp kẻ dưới,
không lấn át kẻ yếu. 2) Ân oán phân minh. 3) Tín nghĩa rõ rệt. Đem
nguyên tắc này áp dụng trong binh thư quân ngũ, Trình Dục qui định rằng
tướng soái đại trượng phu không giết đối phương đã ngã ngựa (kẻ dưới) và
buông khí giới đầu hàng (kẻ yếu).
Do
đó, chúng ta thấy lòng hào hiệp và tinh thần mã thượng là một phẩm chất
của con người do hun đúc mà có chứ không phải một thứ tước vị được ban
cho.
Chức
tước và địa vị xã hội chưa hẳn là yếu tố duy nhất biến một nhà quí tộc
thành hiệp sĩ đại trượng phu. Trước sự cầu khẩn của một bà mẹ xin vua
ban cho con trai của bà chức tước hiệp sĩ, vua James II của Anh quốc
(1633-1701) từng nói: "Tôi có thể biến con bà thành một nhà quí tộc
nhưng ngay cả Đấng Vạn Năng cũng không thể biến cậu ta thành một bậc đại
trượng phu. (I could make him a nobleman, but God Almighty could not
make him a gentleman.)
Lòng
hào hiệp mã thượng thường đi liền với danh dự. Tại các nước châu Âu
thời thế kỷ thứ 17, đàn ông thuộc giới quí tộc thường giải quyết những
tranh chấp cá nhân bằng thách thức so kiếm để bảo vệ danh dự đã bị xúc
phạm trước đám đông; đến khi súng được phát minh thì trở thành các cuộc
đọ súng. Nhưng một người có lòng hào hiệm mã thượng không bao giờ đưa ra
lời thách thức giao đấu trước với một kẻ thua kém tài sức hơn. (Không
nỡ hiếp đáp kẻ dưới, không lấn át kẻ yếu).
Tượng đài vua Lê Lợi ở Thanh Hóa
Trong
lịch sử nước nhà, vị tướng soái nổi tiếng không giết kẻ đầu hàng chính
là Lê Lợi (1385-1433), vị thủ lãnh cuộc khởi nghĩa Lam Sơn đã chiến
thắng quân Minh và trở thành vị vua đầu tiên của vương triều nhà Hậu Lê,
triều đại lâu dài nhất trong lịch sử Việt Nam. Tháng Chạp năm Đinh Mùi
(1427), soái tướng nhà Minh là Vương Thông cùng hàng vạn quân binh thua
trận quy hàng. Các phó tướng và nghĩa quân muốn giết họ để trả thù tội
ác đối với người Việt trong suốt thời gian Việt Nam dưới ách đô hộ của
triều Minh. Lê Lợi nói “Bản tâm của người nhân đức là không muốn giết
người. Không nên vì muốn
trả thù mà mang tiếng xấu muôn đời là đã giết kẻ đầu hàng.” Vì muốn giữ
hòa khí giữa hai nước nên Lê Lợi đã truyền lịnh cấp đầy đủ phương tiện
cho hàng binh Tàu hồi hương.
Lòng hào hiệp trong truyền thống Hoa Kỳ
Lễ ký văn bản đầu hàng, tướng Grant bắt tay tướng Lee (áo xám, râu trắng)
Sự
kiện này không khỏi bắt chúng ta liên tưởng đến sự kết thúc của cuộc
nội chiến Hoa Kỳ xảy ra trong buổi lễ ký kết đầu hàng giữa tướng Robert
E. Lee (Hợp Bang, Confederate, phe miền Nam thua trận) và tướng Ulysses
S. Grant (Liên Bang, Union, phe miền Bắc thắng trận) đầy lòng hào hiệp
và tinh thần mã thượng tại thị trấn Appamatox, thuộc tiểu bang Virginia
ngày 9 tháng 4 năm 1864. Sau khi tướng Lee đặt bút ký tên vào văn bản
đầu hàng, để xoa dịu nỗi đau buồn tủi nhục của người bại trận, tướng
Grant bắt tay cựu đối phương và nói: “Trong cuộc chiến này, chỉ có nước
Mỹ chiến thắng chớ không có ai thắng ai
thua.”
Thật
vậy, tướng Grant ra lệnh cho quân sĩ dưới quyền không được reo hò chiến
thắng và phải đối xử kính trọng với chiến binh bại trận. Các sĩ quan và
binh sĩ miền Bắc đang có mặt đều đưa tay kính cẩn tiễn chào tướng Lee
ra về. Thể theo lời yêu cầu của tướng Lee, tướng Grant cho phép binh sĩ
phe miền Nam được mang lừa ngựa về quê quán để sử dụng trong nông trại
vì đó là tài sản của riêng họ mang theo khi gia nhập quân đội. Ngay cả
cờ của phe miền Nam không hề bị cấm, vẫn tự do tung bay bất cứ nơi nào.
Ngày nay, khi viếng thăm Nghĩa Trang Quốc Gia Arlington ở thủ đô
Washington DC, chúng ta sẽ thấy mồ mả
binh sĩ Miền Bắc và Miền Nam đều giống nhau không phân biệt ai là “liệt
sĩ anh hùng” ai là “lính ngụy”. Trong sách giáo khoa hay tất cả các bảo
tàng viện khắp nước Mỹ, tài liệu lịch sử, di tích, hình ảnh quân đội
hai bên đều được trung thực ghi lại và gìn giữ trân trọng như nhau không
thiên vị bóp méo. Phải chăng đó là do truyền thống tốt đẹp với tinh
thần mã thượng hào hiệp.
Tinh
thần mã thượng hào hiệp đại trượng phu của người Mỹ được thể hiện đối
cả kẻ thù khác chủng tộc. Cuộc tấn công gây hấn bất ngờ của quân đội đế
quốc Nhật vào căn cứ hải quân Trân Châu Cảng ở Hạ Uy Di sáng ngày 7
tháng 12 năm 1941đã giết chết 2,402 quân nhân Hoa Kỳ và gây thiệt hại
nặng nề cho lực lượng hải quân Mỹ ở Thái Bình Dương gây bàng hoàng. Hoa
Kỳ bắt buộc phải tuyên chiến với Nhật. Không đầy bốn năm sau, Hoa Kỳ đã
khiến Nhật phải khuất phục. Ngày 2 tháng 9 năm 1945, trên chiến hạm
Missouri, đại diện của các nước Đồng Minh và chính phủ Nhật Bản chính
thức ký văn kiện
đầu hàng.
Hình:
Tướng Yoshijiro Umezu, Tổng Tham Mưu Trưởng Quân Đội Nhật, ký tên vào
văn bản đầu hàng trên chiến hạm USS Missouri (BB-63), ngày 2 tháng Chín
1945.
Sau
khi ký xong, đại diện của Đồng Minh là tướng MacArthur đọc bài diễn văn
ngắn gọn nhưng chứa đựng tất cả tinh thần cao thượng của người Mỹ có
đoạn như sau: “Đây là hy vọng thiết tha nhất của tôi, và thật sự cũng là
hy vọng của toàn thể nhân lọai, rằng từ sự kiện trang nghiêm này một
thế giới tốt đẹp hơn sẽ hiện ra từ máu và sự chém giết nhau trong quá
khứ - một thế giới sẽ phục sự cho nhân phẩm con người và để hoàn thành
ước nguyện cao cả nhất cho tự do, lòng bao dung và sự công bằng.” Ngay
sau khi đặt chân đến Tokyo, MacArthur ra lệnh cho các binh sĩ dưới
quyền ông không được
trả thù người Nhật vì bất cứ lý do gì và ưu tiên hàng đầu của ông phải
lo cho người dân Nhật qua khỏi cơn đói rách do các hậu quả của chiến
tranh.
Nói
về tinh thần hào hiệp mã thượng của người Mỹ, cựu thủ tướng Tony Blair
của Anh đã viết như sau trong quyển hồi ký The Journey: “Trong phẩm cách
của người Mỹ có tinh thần mã thượng hào hiệp, được hun đúc qua nhiều
thế kỷ, phát xuất từ tinh thần khai phá biên cương để lập nghiệp, và
nhiều đợt di cư của các sắc dân khắp thế giới đổ về đây, từ cuộc chiến
đấu để dành độc lập, đến cuộc nội chiến, từ nhiều biến cố lịch sử, cũng
như những sự kiện tình cờ. Tất cả đã làm thành một nước Mỹ vĩ đại.”
Còn Việt Nam thì sao?
Tinh
thần hào hiệp mã thượng hầu như vắng bóng. Suốt chiều dài lịch sử, Việt
Nam có được bao nhiên tấm gương của tinh thần này hay chúng ta chỉ có
lập rồi phá chớ không có tiếp nối. Và sau mỗi lần lật đổ một triều đại
hay một chế độ là những cuộc giết hại công thần, thanh trừng đẫm máu,
những sự trả thù tàn bạo theo kiểu diệt trừ hậu hoạn, nhổ cỏ phải nhổ
tận gốc đưa đến tru di tam tộc, đào mồ cuốc mả. Sự việc đó cứ tiếp tục
như thế từ đời này sang đời khác. Phương cách trả thù có khác đi nhưng
độ khốc liệt không hề giảm mà còn bao trùm rộng lớn hơn.
Tiểu nhân từ sự bắt buộc một tổng thống đầu hàng
Sáng
ngày định mệnh 30-4-1975 tại Dinh Độc Lập, trong lúc chính phủ VNCH do
tổng thống Dương Văn Minh cầm đầu đã chỉnh tề sẵn sàng chờ đợi đại diện
của phe CSBV dưới danh hiệu MTGPMN đến để bàn giao, Đại úy Phạm Xuân Thệ
là một trong những người đầu tiên mà họ gặp sau khi toán xe tăng T54
thuộc Trung đoàn 66 của Thệ ủi sập cổng Dinh Độc Lập để tiến vào. Về sau
này lên đến chức Trung tướng, Phạm Xuân Thệ kể lại: “Sau đó Dương Văn
Minh lại bước thêm một bước nữa về phía chúng tôi nói “Báo cáo cấp chỉ
huy, chúng tôi đã biết Quân giải phóng tiến công vào nội đô, chúng tôi
đang chờ Quân
giải phóng vào để bàn giao”. Nghe thấy vậy, tôi liền tuyên bố dứt
khoát: “Các ông đã bị bắt làm tù binh, các ông phải tuyên bố đầu hàng vô
điều kiện, không có bàn giao gì cả”. Thấy tôi nói vậy, cả phòng im
lặng. Dương Văn Minh và Vũ Văn Mẫu cùng số người trong
phòng lùi về ngồi vào ghế. Dương Văn Minh có lẽ bị hẫng vì định giữ thế
chủ động ra vẻ thiện chí bàn giao lại chính quyền, thành ra bị động,
lúng túng đành cúi đầu chờ đợi.”
Sau
đó Tổng Thống Dương Văn Minh bị bắt buộc đưa đến đài phát thanh để đọc
lệnh đầu hàng do Thệ viết trước và được Trung tá Bùi Xuân Tùng, Chính ủy
Lữ đoàn 203 chấp thuận.
Tổng thống Dương Văn Minh tuyên bố đầu hàng trên đài phát thanh Sài Gòn. Phạm Xuân Thệ đội nón cối đứng bên mặt trong bức ảnh.
Hai tuần lễ sau khi VNCH đầu hàng, trong buổi lễ ăn mừng chiến thắng được tổ chức rầm rộ ngày 15/5/1975, tướng
Trần Văn Trà đã nói trước mặt mọi người: “Trong cuộc chiến này, cả Miền
Bắc và Miền Nam đều chiến thắng, chỉ có người Mỹ bại trận”. Có đúng vậy
không hay chỉ là một câu nói mị dân nằm trong mục đích tuyên truyền của
chế độ để lừa gạt tất cả những quân dân cán chính VNCH. Mười ngày “học
tập” do chính sách “khoan hồng của Đảng” hứa hẹn 10 trở thành năm, mười
năm hay lâu hơn thế nữa. Cựu chiến binh, thương phế binh và tử sĩ của
QLVNCH bị nhà cầm quyền CSVN
đối xử ra sao suốt từ ngày ấy?
Cuối
năm 2004, khi nhắc đến cuộc chiến tranh đã lùi xa gần ba mươi năm, cựu
Thủ tướng Võ Văn Kiệt phát biểu: “Nhiều sự kiện khi nhắc lại, có hàng
triệu người vui mà cũng có hàng triệu người buồn”. Không buồn sao được
khi phe chiến thắng đã “giải phóng”, đã “thống nhất”, đã thâu tóm hết
tài sản của phe thua trận, thế mà vẫn còn tiếp tục sỉ nhục và tìm cách
xóa bỏ mọi vết tích của đối phương mà họ từng gọi là đồng bào ruột thịt.
Mãi đến gần cuối đời (mất năm 2008), ông Võ Văn Kiệt mới nhìn nhận “Yêu
nước có thể bằng nhiều con đường. Tổ quốc là của mình, dân tộc là của
mình, Việt Nam là của mình, chứ không phải là của riêng bất cứ tôn giáo
hay phe phái nào cả”. Ông nỗ lực giúp đỡ việc tìm lại hài cốt của những
tù nhân nguyên là sĩ quan của QLVNCH chết trong các trại tù cộng sản,
gặp gỡ giới chức có thẩm quyền tỉnh Bình Dương để bàn về vấn đề việc
phục hồi Nghĩa Trang Quân Đội Biên Hòa hầu mong xoa dịu nỗi buồn của
hàng triệu người miền Nam. Nhưng như chúng ta thấy, vòng oan khiên vẫn
còn tròng trên cổ người sống và trên những nấm mồ của người chết chỉ vì
người cộng sản Việt Nam chẳng những thiếu một tinh thần hào hiệp mã
thượng mà còn trả thù người ngã ngựa một cách tiểu nhân.
Tiểu nhân với tù hàng binh
Chuyện
người cộng sản trả thù tiểu nhân như thế nào hầu như chúng ta ai cũng
biết, nếu không từ kinh nghiệm bản thân, không chứng kiến tận mắt thì
cũng nghe từ bạn bè thân quyến kể lại. Khi viết hồi ký Tháng Ba Gãy Súng
kể lại kinh nghiệm bị Việt Cộng bắt trong lúc tìm phương tiện di tản,
cựu trung úy Cao Xuân Huy thuộc Tiểu đoàn 4 TQLC không lồng vào đấy bất
cứ một hư cấu nhỏ nào. Không nhằm ca tụng ai, không lên án ai, ông chỉ
muốn nói lên hoàn toàn sự thật. Chúng ta hãy đọc một đoạn ông kể về sự
trả thù như sau:
“Ðoàn
tù chúng tôi đi thất thểu trên đường, đoành một tiếng, một xác người
ngã xuống bờ ruộng, đoành một tiếng, một xác người nữa ngã xuống bờ
ruộng. Một người đi ngay bên cạnh tôi bị bắn vào đầu, máu và óc văng
dính cả vào người tôi.
Trò
bắn giết rất kỳ cục và khó hiểu. Những người bị bắn chết và những người
không bị bắn -hay chưa bị bắn- đều không hiểu tại sao bọn Việt Cộng lại
bắn người này mà không bắn người kia. Tại sao thằng Việt Cộng này không
bắn người này mà bắn người nọ? Chúng tôi rất hoang mang nhưng lúc này
không ai có phản ứng gì, mọi người vẫn cứ lầm lũi, thất thểu đi. Ðói,
khát, mệt mỏi và luộm thuộm lếch thếch, chúng tôi đi, hoang mang không
hiểu bao giờ đến lượt mình bị bắn.
Số
người bị bắn mỗi lúc dĩ nhiên mỗi nhiều hơn. Tất cả lon lá đã được gỡ
ra từ sáng, khi chúng tôi mới nhận được quần áo mang từ bờ biển vào. Râu
ria trên mặt biểu hiệu cho chức cấp hiểu theo nghĩa Việt Cộng cũng
không phải, vì nhiều người để râu, trong đó có cả tôi, không hay chưa bị
bắn, nhiều người râu ria nhẵn nhụi đã bị bắn.
Mãi
về sau, khi nghe được bọn Việt Cộng cầm súng đi tìm người để bắn nói
chuyện với nhau chúng tôi mới vỡ lẽ ra. Những tên Việt Cộng nào đã từng
bị tiểu đoàn Thủy Quân Lục Chiến nào đánh cho xất bất xang bang lúc
trước, lúc này cứ đi tìm huy hiệu và bảng tên của tiểu đoàn đó mà bắn.
Người
mặc áo có gắn phù hiệu của tiểu đoàn 5 không bị thằng Việt Cộng này bắn
nhưng bị thằng Việt Cộng khác bắn. Người mặc áo có gắn phù hiệu tiểu
đoàn 3 bị bắn bởi thằng Việt Cộng không bắn người mặc áo của tiểu đoàn
4.
Chúng tôi lột hết bảng tên và phù hiệu tiểu đoàn.
Cuộc bắn giết thưa dần rồi chấm dứt.”
Giết
tù hàng binh, chỉ có những người Cộng Sản vì theo một chủ nghĩa bạo lực
cách mạng sắt máu mới nuôi lòng hận thù như vậy. Họ là những con người
sinh ra, được huấn luyện để sống với hận thù và chỉ tồn tại khi còn hận
thù.
Qua
bài viết Mùa Xuân Nào Tôi Mất Cha, tác giả Võ Trang viết: “Nhiều người
nói với tôi rằng Cộng Sản thắng được là nhờ họ dám tàn nhẫn. Với tôi, họ
không những chỉ tàn nhẫn trong những thủ đoạn tra tấn, đàn áp và giết
chóc mà còn tàn nhẫn bóp méo cả lịch sử, tình quê hương, lòng nhân đạo,
những giá trị nhân bản, những tổn thương văn hoá của dân tộc.”
Theo
lời kể của nhiều nhân chứng, ngày 1 tháng Năm 1975, sau khi bắt được
Đại tá tỉnh trưởng Chương Thiện Hồ Ngọc Cẩn, Việt Cộng đánh đập ông tàn
nhẫn, biệt giam, đưa ra tòa án nhân dân xét xử. Tuyên án tử hình và lập
pháp trường cát bắn chết ông xong, Việt Cộng đem xác ông bỏ
tại chợ Vị Thanh, Chương Thiện cho công chúng qua lại xem và bêu xấu
ông, cho ruồi bọ đục khoét thi thể ông. Sau đó chúng cột chân ông vào xe
Jeep kéo lê trên đường phố. Thật dã man vô cùng.
Một
sĩ quan cấp Tá khác bị VC trả thù dã man là Th/Tá Trần Đình Tự, Tiểu
đoàn trưởng TĐ 38 BĐQ. Mũ Nâu Thiên Lôi kể rằng sáng ngày 30/4/1975, sau
khi nghe Trung Tá Liên Đoàn Trưởng Lê Bảo Toàn họp và thông báo lại
lệnh đầu hàng, Thiếu tá Trần Đình Tự, Tiểu Đoàn Trưởng TĐ 38 BĐQ nói với
binh sĩ của ông rằng họ có toàn quyền lựa chọn trở về với gia đình, còn
ông sẽ ở lại tiếp tục chiến đấu. Có gần 40 tay súng tình nguyện ở lại.
Ông dẫn những người hùng quyết tử tiến vào khu vực vườn khoai mì để tiếp
tục ăn thua với địch đến viên đạn cuối cùng. Chín người sống sót bị
giải về sân trường
Tiểu Học gần đấy.
Thủ
trưởng Việt Cộng đến trước mặt Th/T Tự lớn tiếng lăng nhục QLVNCH và
chỉ ngay mặt ông thoá mạ thậm tệ, bắt cởi bỏ quân phục với cấp hiệu may
dính trên cổ áo. Th/T Tự phản đối để tiếp tục nghe VC nhục mạ mắng chửi.
Ông chửi lại nên bị tên VC dùng dao găm đâm và rạch bụng ruột đổ ra
ngoài rồi dần dần gục xuống trên vũng máu. Tám quân nhân
còn lại cũng đều bị xử bắn và quăng xác xuống vũng nước. VC còn tiếp tục
gây khó khăn cho gia đình Th/T Tự trong việc xin lại xác và thờ cúng.
Mũ Nâu Thiên Lôi viết:
“Câu
chuyện về sự trả thù đê hèn và dã man của bè lũ Cộng Sản Việt Nam là
hoàn toàn sự thật. Và dĩ nhiên sự trả thù, cung cách đối xử của Cộng Sản
dành cho Quân nhân QLVNCH và gia đình hoàn toàn do chính sách, kế hoạch
đã được chỉ thị từ Trung Ương xuống, nhưng nếu có ai hỏi đến chúng nó
lại bỏ mép đổ vấy cho địa phương, cho nhân dân, cho cá nhân nào đó nóng
giận gây ra.”
Tiểu nhân với cả người đã chết
Chúng
ta đều biết ngoài việc Nghĩa Trang Quân Đội Biên Hòa (NTQĐBH) bị tìm
cách xóa dấu vết bằng việc trồng cây muồng như blogger Lê Tùng Châu đã
nêu lên trong bài viết “Tiếng Kêu Khẩn Thiết Từ Ngôi Đền Thiêng” , sự
phân biệt đối xử với thương phế binh VNCH cũ, nhà cầm quyền CSVN còn từ
chối cả sự tìm kiếm hài cốt tử sĩ mất tích của VNCH, cho dù với ngân
khoản do chính phủ Hoa Kỳ trợ cấp. Lê Tùng Châu cho rằng việc trồng cây
muồng trong NTQĐBH là một âm mưu thâm độc của CS. Anh giải thích:
Hình các bia mộ hoặc bị đập bể sứt hoặc bị hoặc bị đục thẳng bằng búa vào mắt, mặt, đầu trên di ảnh người quá cố.
“Năm
2002 khi Trung đoàn Gia Định tới cắt cụt ngọn Nghĩa Dũng Đài làm vọng
gác và xây nhà nhỏ ở dưới chân rồi dùng phần đất trống trong Nghĩa Trang
để làm nơi tập luyện thì cũng tự đây, không rõ theo lệnh ai, họ đã bắt
đầu một việc độc ác có chủ mưu là trồng cây khắp Nghĩa Trang và kín khắp
Đền Tử Sĩ. Nên biết rằng, về thổ nhưỡng, khu đất được các Tướng lãnh
VNCH khi xưa chọn làm Nghĩa Trang là một ngọn đồi đất đỏ với đá non,
nhỏ. Cho nên về mặt dinh dưỡng, là loại đất chẳng phù hợp để trồng cây.”
“Vả
lại, nếu ta so sánh với các “nghĩa trang liệt sĩ” của VC rải rác khắp
nước từ bắc chí nam, thì trong nghĩa trang chẳng có trồng cây bao giờ.
Các khu mộ, dù là dân sự hay quân độ trên khắp thế giới, cũng không hề
có nơi đâu lại trồng cây trong nghĩa trang! Vì lẽ đây là không phải là
đất trống, mà bên dưới mỗi diện tích kim tĩnh nhỏ bé 1m,2 x 2m,4 là di
cốt của người quá cố. Các loại cây trồng, nhất là cây lấy gỗ hay cây
rừng sẽ có lớp rễ ăn sâu và rộng nếu đó là loại đất nghèo dinh dưỡng, do
đó, theo thời gian, chúng sẽ xâm phạm tàn phá biến dạng hoàn toàn các
mộ phần. Thêm nữa, với tập tục
Á Đông, người Việt mình tối kỵ mồ mả cha ông bị rễ cây đâm vào bởi tin
rằng sẽ làm “đau đớn, khó chịu” linh hồn người chết và con cháu sẽ không
thể sống yên hay làm ăn yên ổn được.”
Ngày
06-10-2011, do Hà Nội nhất định không chịu tìm hài cốt quân nhân VNCH
trong công tác tìm kiếm chung cho tất cả hài cốt tử sĩ hai bên, Hoa Kỳ
đã ngưng tài trợ chương trình này. Trước đó, Nghị Sĩ Jim Webb, chủ tịch
Tiểu Ban Ðông Á và Thái Bình Dương, cho hay chính phủ Mỹ đã đình chỉ số
tiền viện trợ 1 triệu đô la cho Việt Nam cho đến khi Hà Nội cam kết sẽ
tìm cả hài cốt quân nhân VNCH mất tích. Tuy nhiên, Hà Nội lại nói là họ
không được chính thức thông báo điều này. Theo sự ước tính, hàng ngàn
hài cốt quân cán chính VNCH mất tích trong cuộc chiến Việt Nam cùng với
hàng ngàn hài cốt tù cải tạo chết trong
các nhà tù cộng sản sau khi VNCH sụp đổ, vùi lấp trong các khu rừng.
Thượng
Nghị Sĩ Webb, cũng là một cựu quân nhân từng tham chiến ở Việt Nam và
từng đi thăm NTQĐBH năm 2008, nói không có ngân khoản nào được sử dụng
“cho đến khi chúng ta được bảo đảm chắc chắn rằng chương trình viện trợ
áp dụng đồng đều cho tất cả những ai chiến đấu ở tất cả các bên.” Nhà
cầm quyền CSVN thì nói các cuộc thương thuyết của chương trình này
không có đề cập tới những tử sĩ của QLVNCH. TNS Webb khuyên Hà Nội nên
tìm cách hòa giải với cựu quân nhân VNCH nhưng xem ra không kết quả vì
dường như CSVN chưa hề biết hào hiệp mã thượng là gì. Nếu biết thì họ đã
không trả thù
một cách tiểu nhân đối với những nấm mồ trong NTQĐBH. Rất nhiều hình tử
sĩ trên bia mộ bị bắn bằng súng với dấu đạn lỗ chỗ, bia mộ bị đập phá,
mộ phần bị phóng uế và bị sơn vẽ những lời nguyền rủa.
Phan Hạnh.
Không có nhận xét nào:
Đăng nhận xét