Trần Trung Đạo: Số phận một loài chim
Giới thiệu:
Tại sao tuổi trẻ Hong Kong đứng dậy mà tuổi trẻ Việt Nam lại không ?
Bởi vì, ngoại trừ một số rất ít thoát ra được, nhận thức của đa số tuổi
trẻ Việt Nam vẫn còn bị đầu độc bởi một hệ thống giáo dục ngu dân, lạc
hậu, tẩy não. Nếu cần so sánh, nên so sánh tuổi trẻ Việt Nam với tuổi trẻ Bắc Hàn thay vì với tuổi trẻ Hong Kong.
Hai cơ chế chính trị tại Bắc Hàn và Việt Nam ảnh hưởng đến đời sống của
các em bé Bắc Hàn và Việt Nam về căn bản vẫn giống nhau. Cả hai cơ chế
chính trị đều nhằm ngặn chặn mọi suy nghĩ độc lập và hủy diệt mọi khả
năng phản kháng của con người. Bài viết dưới đây được viết đúng 10 năm
trước, một lần nữa xin chia sẻ cùng các bạn.
Cách đây không lâu. Anh chủ nhiệm của một tờ báo địa phương đến thăm và nghe
các con tôi nói chúng thích nuôi thú vật kiểng (pet). Lần sau anh trở
lại với một chiếc lồng và hai con chim nhỏ để tặng các cháu. Anh dặn kỹ:
"Chim này chỉ nuôi trong nhà, đem ra ngoài gió chúng sẽ chết."
Tôi thật không tin. Chim là phải bay nhảy chứ làm gì ngay cả gió cũng sợ.
Tôi đến một tiệm bán chim hỏi lại. Bà chủ tiệm cũng đồng ý với anh chủ
nhiệm: "Đây là loại chim được sản xuất theo lối công nghiệp chứ không phải chim sinh nở tự nhiên. Nếu đem ra ngoài trời, chúng sẽ chết vì không thích
hợp với môi trường." Tôi đành giữ kỹ chim trong nhà. Vài hôm sau, một người bạn cùng quê của tôi tới thăm. Anh nghiêm chỉnh khiển trách: "Mày
là Phật tử mà bỏ tù sinh vật. Người ta chẳng ví cảnh tù đày như cá chậu
chim lồng đó sao. Phải thả chúng bay đi." Tôi thật khó xử, vừa cảm thấy
việc "bỏ tù sinh vật" là không nên làm nhưng thả bay đi chúng sẽ chết.
Tôi phân trần với anh: "Đây là chim công nghiệp, đem ra ngoài chúng sẽ
chết, và thả bay đi chúng càng chết nhanh hơn." Anh bạn Quảng Nam đáp: "Nếu chúng chết thì chúng sẽ trọn nghiệp vì biết đâu kiếp sau chúng sẽ là những con chim tự do."
Tôi
chưa hẳn đồng ý với cách cãi của anh ta nhưng phải công nhận việc tôn
trọng tự do của mọi sinh vật là đúng, nên viết thư về Việt Nam hỏi ý một
vị Đại Đức ở Hội An. Thầy trả lời theo lối "vạn sự do tâm": "Chim
công nghiệp vẫn là chim. Nếu môi trường xấu làm cho chúng xấu đi thì
môi trường tốt sẽ làm cho chúng tốt trở lại. Hãy tập cho chúng quen dần,
từng bước và khi chúng hoàn toàn quen thuộc với môi trường bên ngoài
thì phóng sinh chúng đi."
Tôi cho đó là giải pháp hợp lý. Rất tiếc tôi lại quá bận để tập cho
chim quen với thiên nhiên, bèn tặng chúng cho người em và dặn chú ấy tập
cho chúng quen dần với đời sống bên ngoài, định bụng khi chúng hoàn
toàn làm quen sẽ bàn với chú em làm lễ phóng sinh.
Tháng sau tôi trở lại nhà người em nhưng không thấy chim. Chưa kịp hỏi, chú em trả lời: "Chẳng giấu gì anh, ngày nào em cũng đem chim ra vườn tập. Chúng tiến bộ lắm.
Chúng rất thích cảnh thiên nhiên. Vừa thấy cảnh cây lá sum sê là chúng
kêu ríu rít lên ngay. Tuần trước, trong lúc em để chúng trên sân sau,
chạy vào nhà trả lời điện thoại, khi trở ra thì chỉ còn mấy cái lông rơi
rớt bên cạnh chiếc lồng vỡ nát và con mèo của hàng xóm đang nhảy sang
bên kia hàng rào. Tôi an ủi chú em theo lý luận của anh bạn Quảng Nam: "Hai
con chim đó đã trọn nghiệp trong kiếp này, hy vọng đời sống sau, chúng
sẽ làm chim của núi rừng tự do thay vì làm kiếp chim công nghiệp."
Mỗi khi nhớ đến câu chuyện hai con chim, tôi lại ngậm ngùi nghĩ đến số phận
của các em bé Bắc Hàn. Cuộc đời của các em không khác gì những con chim
công nghiệp kia. Ngay khi các em ra đời, các cơ chế chính trị và xã hội
đã được chuẩn bị sẵn để các em sống, suy nghĩ và hành động một cách
thích nghi.
Tương tự như môi trường dành cho loại chim công nghiệp, cơ chế chính trị Bắc
Hàn được xây dựng và tồn tại bằng niềm tin tuyệt đối nơi lãnh tụ của họ.
Trong cơ chế đó sự nhầm lẫn, hoài nghi dù hợp lý đều không được cho
phép tồn tại.
Trong buổi phỏng vấn dành cho tuần báo Time,
người cận vệ của Kim Chính Nhật đào thoát nhắc lại câu chuyện của một
người lái xe vô tình chạy lạc vào khu vực dinh thự của Kim Chính Nhật.
Sau khi thẩm vấn anh tài xế, đám cận vệ của Kim Chính Nhật đều đồng ý
rằng anh ta thật sự đi lạc. Tuy nhiên cách giải quyết họ chọn trong
trường hợp đó là bắn chết anh ta ngay tại chỗ. Gia đình anh tài xế được
thông báo rằng anh đã "đền nợ nước" và thưởng công cho gia đình một cái
tủ lạnh. Nhiều câu chuyện, đối với người sống bên ngoài bán đảo Bắc Hàn,
có thể là chuyện hoang đường đến độ buồn cười, nhưng với người dân Bắc
Hàn lại là chân lý, đúng như một nhà thơ Việt Nam có lần đã định nghĩa:
"Chân lý là đường Đảng đã vạch ra và sự thật là gì Đảng đã dạy ta."
Giờ sinh của Kim Chính Nhật, con trai Kim Nhật Thành và là đương kim lãnh tụ Bắc Hàn, được mô tả trong giáo trình tiểu học: "Lãnh Tụ Kính Yêu sinh ra trong
một căn cứ quân sự bí mật bên rặng núi thánh Paektu-san (Bạch Đầu Sơn), lúc Người ra đời một có hai cầu vồng rực rỡ
và một ngôi sao sáng hiện ra trên nền trời"
(Người dân Bắc Hàn gọi Kim cha là Lãnh Tụ Vĩ Đại hay Lãnh Tụ Vĩnh Cửu
và Kim con là Lãnh Tụ Kính Yêu). Thật ra làm gì có căn cứ quân sự nào,
chẳng trên núi thánh nào và lại càng không có chuyện thần thoại như hai
vòng cầu vồng ngũ sắc hiện ra trong giờ Kim Chính Nhật giáng trần.
Theo sử liệu của Sô-Viết cũ, anh chàng Kim Chính Nhật sinh ra trong một đồn
lính nhỏ hẻo lánh ở Siberia vì cha anh ta làm lính cho Stalin sau khi
trốn khỏi Mãn Châu. Một mẩu chuyện khác về Kim Chính Nhật: "Mặc dù trước kia chưa bao giờ chơi gôn (golf), khi cầm cây gôn lần đầu Lãnh Tụ Kính Yêu đã đánh trúng ngay 5 lỗ một lần." Và nữa, "Một
lần nọ, Lãnh Tụ Kính Yêu đến kiểm tra súng của một đơn vi quân đội và
trước mặt binh sĩ Người đã rút súng bắn trúng ngay mắt trái của mười con
bò rừng."
Kim Chính Nhật không phải là người thường, trong ý thức của người dân Bắc
Hàn, anh chàng là hiện thân của một thiên thần. Chàng ta tuy chưa bao
giờ đi lính một ngày nhưng được gọi trong sách là "Tướng Trời". Tại Bắc
Hàn, ngay cả chiếc khăn để lau tấm ảnh của hai cha con họ Kim cũng không
được phép dùng để lau các đồ vật khác trong nhà. Giống như những con
chim công nghiệp, các em bé Bắc Hàn cũng líu lo mỗi sáng, nhưng nếu ai
lắng tai nghe, bài hát các em hát trong giờ vào lớp luôn bắt đầu bằng
câu: "Hoa nở nhờ có không khí và các em cười nhờ ơn của Kim Lãnh Tụ Vĩ Đại."
Học sinh Bắc Hàn được dạy phải "yêu tổ quốc và yêu đồng bào" nhưng tổ quốc
của em được mô tả trong sách vở không phải là một quốc gia nghèo đói, cô
lập với thế giới bên ngoài mà một thiên đường trên trái đất dưới sự
lãnh đạo anh minh của Kim Lãnh Tụ. Trong các ví dụ được dùng ở trường
học, từ văn chương đến toán học, cuộc đời và sự nghiệp của hai cha con
họ Kim luôn được dùng để ví những điều tốt đẹp và "đế quốc Mỹ xâm lược"
luôn được dùng để ám chỉ những điều xấu xa tội lỗi nhất trên đời.
Sinh viên học sinh Bắc Hàn rất kiêu căng khi nói về lịch sử và dân tộc Triều
Tiên vì một lý do đơn giản, ngoài những câu chuyện tuyên truyền được
dạy ở trường, họ không biết gì về lịch sử loài người và cũng không biết
đúng về lịch sử của tổ tiên họ. Và với một môi trường như thế, nhiều thế
hệ người dân Bắc Hàn, hơn nửa thế kỷ qua đã tiếp tục sinh ra, lớn lên
trong số phận một loài chim công nghiệp.
Mặc dù những mẩu chuyện trên có thể gợi lại trong ký ức của những người
Việt lớn tuổi những hình ảnh, những tiếng thì thầm nghe rất quen quen,
tuổi thơ Việt Nam ngày nay dù sao cũng may mắn hơn những người cùng tuổi
với họ ở Bắc Hàn. Trong lúc nhiều nơi vẫn còn khó khăn, thiếu thốn, đa
số tuổi thơ Việt Nam đang có một đời sống tinh thần dễ chịu hơn tuổi thơ
Bắc Hàn. Bài học của thiếu nhi Việt Nam học hôm nay không đến nỗi hoang
đường như của thiếu nhi Bắc Hàn và bài hát của các em bé Việt Nam hát
không trơ trẽn khó nghe như những câu mà thiếu nhi Bắc Hàn dùng để ca
tụng cha con họ Kim.
Hai mươi năm qua, ánh sáng bên ngoài đã theo những khe hở của "chính sách
đổi mới" rọi vào căn nhà Việt Nam mang theo kiến thức mới lạ từ những
phương trời khác. Qua những khe hở đó, chúng ta cũng được nghe nhiều
tiếng nói chân thành vọng ra từ trong nước tương tự như chúng ta đang
nghe những ưu tư trăn trở của những người Việt đang sống ở ngoài nước dù
họ đã một thời lớn lên bên này hay bên kia sông Bến Hải.
Như vậy có gì giống nhau trong hoàn cảnh của hai em thiếu nhi Bắc Hàn và Việt Nam không?
Có chứ. Hai cơ chế chính trị ảnh hưởng đến đời sống của các em bé Bắc Hàn
và Việt Nam về căn bản vẫn giống nhau. Hai con nước đều bắt nguồn từ
thượng lưu sông Volga trong những thập niên năm đầu của thế kỷ 20 và vẫn
còn đang chảy xiết. Cả hai cơ chế chính trị đều nhằm ngặn chặn mọi
suy nghĩ độc lập và hủy diệt mọi khả năng phản kháng của con người.
Quyền căn bản đầu tiên trong nghiên cứu khoa học là quyền đặt vấn đề,
thế nhưng quyền đó không đươc tôn trọng trong hai xã hội Bắc Hàn và Việt
Nam.
Hiện nay, nhiều quốc gia và hàng trăm tổ chức thiện nguyện, tôn giáo, nhân
đạo khắp thế giới đang tìm mọi cách để cứu giúp thiếu nhi Bắc Hàn, nhưng
đồng thời, mọi người cũng đồng ý rằng, tất cả những gì họ đang làm chỉ
là những biện pháp vá víu trong lúc chờ đợi một sự thay đổi toàn diện và
căn bản.
Đúng vậy, sinh mệnh của một quốc gia không thể thay đổi bằng vài bao bột mì,
hướng đi của một đất nước không thể được lót bằng dăm ba lon sữa và
hạnh phúc của một dân tộc không bao giờ đến bằng sự vuốt ve an ủi từ
những bàn tay thương xót bên ngoài.
Số phận của một dân tộc phải được quyết định bằng mồ hôi nước mắt, bằng
những tấm lòng tận tụy với tương lai dân tộc, bằng đức tính kiên nhẫn
làm việc vì đất nước của chính người dân nước đó. Và dù diễn ra dưới bất
cứ hình thức nào, nhẹ nhàng hay cứng rắn, xói mòn hay cường tập, thay
đổi cơ chế chính trị vẫn là mục tiêu quyết định của mọi cuộc cách mạng
xã hội.
Không có nhận xét nào:
Đăng nhận xét