Hệ thống tiền tệ Mỹ …tiền ma
VRNs (29.07.2013) – Lời nói đầu
Cả
năm qua báo chí Mỹ thường hay nói tới việc mất giá của đồng dollar, tới
việc mắc nợ của chánh phủ Mỹ, rồi hay nhắc tới Federal Reserve, và tới
tên của Ông Greenspan. Tôi không có học ÉcoPo của Pháp, không có học MBA
của Mỹ nên mù tịt. Nhưng vì tò mò muốn hiểu biết, nên tôi đã cố gắng
tìm tòi, học hỏi đó đây. Thì mới thấy rằng vấn đề tiền tệ của Mỹ là cả
một mê-lộ có đường hầm, [un vrai labyrinthe avec des souterrains] một
con đường màng nhện chằng chịt mà nếu đi không có bản chỉ đường thì sẽ
dể bị lạc.
Rồi tôi nghĩ rằng trong số độc giả của Y Tế Nguyệt
San
chắc cũng có một ít bạn đọc mù tịt như tôi, nhưng không có thì giờ để
nghiên cứu đó đây như tôi, nên tôi viết bài này tóm lược và giản-dị -hóa
tối đa một vấn đề vô cùng phức tạp đã kéo dài theo lịch sử của Hoa-kỳ,
để giúp phần nào các bạn ấy hiểu sơ sơ vấn đề về đồng dollar là một thực
thể mà mình phải đối phó hằng ngày. Tôi sẽ dùng phương pháp hỏi và đáp
[H & Đ] để dẫn đường quý bạn đi trên mê lộ và trong đường hầm ấy.
Tôi
xin lưu ý quý bạn: Vì trong bài có vài ba cụm-từ được nhắc đi nhắc lại
nhiều lần nên tôi sẽ viết tắt các cụm từ ấy như sau: FED là Federal
Reserve, CPLB là Chính Phủ Liên Bang, HCQHK là Hiệp Chủng Quốc Hoa-Kỳ
và T.T. là Tổng Thống.
I- Tạo ra tiền [create
money]
H-: Dollar là tiền chính thức của HCQHK. Vây ở bên Mỹ cơ quan nào có quiyền phát hành dollar?
Đ-:
Câu trả lời tự nhiên và thông thường mà cũng hợp lý là Bộ Tài Chánh của
CPLB . Nhưng trên thực tế thì không hẳn như vậy. Bộ Tài Chánh của CPLB
chỉ có quyền phát hành “coins” nghĩa là đúc [mint] các dồng tiền One
Cent, Five Cents, One Dime, One Quarter, và một số đồng tiền One Dollar.
H-: Vậy thì cơ quan nào có quyền phát hành giấy xanh dollar?
Đ-: Chỉ có Federal Reserve [FED] mới có quyền phát hành giấy xanh dollar.
H-:
Tôi thấy trên giấy xanh dollar nào cũng có hình của một ông Tổng Thống
Mỹ, cũng có chữ ký tên của “Treasurer of the United States”, và của
“Secretary of the Treasury” mà không phải do
Department of Treasury củaCPLB phát hành là gì ?
Đ-:
Vâng, coi vậy mà không phải vậy. Trên giấy xanh dollar nào cũng có in
hàng chữ “Federal Reserve Note” mà chữ note ở đây có nghĩa là “ a paper
acknowledging a debt and promising payment; promissory note”. Tức là tờ
giấy xanh dollar nào cũng là một tờ giấy nợ.
H-: Ai nợ ai?
Đ-: Chánh Phủ Liên Bang nợ FED.
H-: Sao lại có chuyện đó?
Đ-:
Số tiên CPLB cần luôn luôn nhiều hơn số tiền thuế của dân đóng góp, nên
CPLB phải mượn. Mượn ai? Mượn FED là cơ quan duy nhứt có quyền phát
hành tiền dollar. Mượn bằng cách nào? Bằng cách cho phép Bộ Tài Chánh
[The Treasury Department] in giấy nợ dưới hình thức “Federal Bonds” [là
giấy IOU (I Owe You) trong đó chánh phủ cam kết sẽ trả
lại với tiền lời] [mà bách-phân lời (% interest) là do FED. chủ nợ,
quyết định]. FED chấp nhận và in [thí dụ như một tỷ dollars $1 billion]
đưa cho chánh phủ. Thế là chánh phủ [tức là quốc gia, là dân Mỹ] nợ FED
một tỷ dollars với tiền lời. Rồi mỗi năm tiền nợ đó chồng chất lên nên
đến năm 1995 số tiền nợ là $5 trillion [1 trillion là 1 ngàn tỷ] và đến
ngày 16-th.3-2006 là hơn $8,21 trillion.
H-: FED là một cơ quan của Liên Bang, vậy CPLB mà nợ FED thì có khác gì là “Tôi nợ Tôi”.
Đ-:
Khác, vì FED là một cơ quan mang tên là “Liên Bang” [Federal] nhưng
không phải của Liên Bang. FED là một công-ty độc lập của tư-nhân [a
corporation independent privately owned].
H-: Privately owned thì ai own nó?
Đ-:
Federal Reserve
[FED] gồm có 12 cái Fed bank địa phương [twelve regional federal
reserve banks] mỗi cái là sở-hữu của những nhà bank buôn bán tư thành
viên của cái Fed địa phương đó. Các Fed địa phương có trụ sở ở: 1-
Boston, 2-New York, 3-Philadelphia, 4-Cleveland, 5-St Louis, 6-San
Francisco, 7-Richmond, 8-Atlanta, 9-Chicago, 10- Minneapolis, 11- Kansas
City và 12-Dallas.
Fed Bank của New York có đa số cổ phần
[53% of shares]. Mà trong Fed bank của New York, Citibank và J.P.Morgan
Chase Co nắm đa số cổ phần. Citibank là của gia-đình Rockefeller và J.P.
Morgan Chase Co là của gia-đình Morgan. Hai gia đình này và gia đình
Carnegie với gia đình Rothschild là thành phấn quan trọng nhứt của một
nhóm người mà hoc giả Mỹ gọi là “the Robber Barons” [những Nam-tước Trộm
Cắp].
H-: Nhưng trong Ban Quản Trị [Board] của
FED ở Washington có Ông Tổng Trưởng Tài Chánh [the Treasury Secretary]
và Ông Giám Sát Ngân Khố [the Comptroller of Treasury] là nhân viên
chánh phủ.
Đ-: Vâng, vì vậy mà trên các giấy xanh dollar
có chữ ký tên của hai ông này. Và T.T. Mỹ cũng bổ nhiệm [với sự chấp
thuận của Senat] ông Chủ Tịch Hội Đồng Quản Trị [Chairman of The
Governing Board] của FED, cho nên FED được coi như là một cơ-quan “gần
như chính thức” [ quasi-governmental]. Hội Đồng này gồm có 7 người, với
nhiệm kỳ là 14 năm, mà Tổng Thống chỉ có quyền thay thế một người mỗi
hai năm.
Như vậy, thí dụ như có một ông T.T. muốn sửa đổi FED
theo ý của ông, thì trong nhiệm kỳ 4 năm của T. T, ông chỉ thay thế
được có 2 người [vì ông chỉ có quyền thay thế một người mỗi 2 năm.]
Thôi thì cho rằng ông ấy là một ông T. T. tài ba lổi lạc, vượt qua
được những khó khăn và những chống đối mà ông đã gây ra [vì quan niệm
muốn sửa đổi FED], trong hàng ngũ dân-biểu và nghị sĩ của cả hai đảng,
trong chính trường và trong media, để ông được đắc cử một nhiệm kỳ thứ
hai, thì ông sẽ bổ nhiệm được 2 người nữa trong Governing Board (nếu
được the Senate chấp thuận) thì cho đến gần cuối nhiệm kỳ 2, ông mới đưa
ra được một dự luật sữa đổi, mà chưa chắc dự luật ấy sẽ có được số
phiếu cần thiết ở hai viện để trở thành một đạo luật trước khi ông phải
rời khỏi Nhà Trắng.
Mặt khác ban Quản Trị [Board] không kiểm
soát được cả 12 Fed bank địa phương và các Fed bank địa phương phải theo
chánh sách của Fed
Bank New York nắm đa số cổ phần. Vả lại FED kể từ khi thành lập cho
tới nay, chưa bao giờ bị chánh phủ “audit”[ soát xét ] vì năm 1975 dự
luật [bill] H.R.4316 cho phép chánh phủ “audit” FED, được đưa ra
Congress, nhưng dự luật không thông qua được vì không đủ phiếu.
Hãy
xem như ông Alan Greenspan đang làm giám đốc công ty [corporate
director] cho J.P. Morgan, thì được T.T. Reagan bổ nhiệm năm 1987 làm
Chủ Tịch của FED, giữ chức đó gần 19 năm, đến năm 2006 dưới thời
T.T.George W. Bush mới về hưu. Nghĩa là đã làm Chủ Tịch Hội Đồng Quản
Trị FED với bốn đời T.T. Mà trong lúc tại chức Ông không bao giờ có hợp
báo, không bao giờ cho phỏng vấn, tức là không có việc hỏi han chất vấn
lôi thôi.
H-: Trở lại đồng dollar. Bây giờ tôi mới biết
rằng CPLB chỉ có quyền đúc coins, còn quyền phát hành giấy xanh là của
FED, mà FED thì bị các nhà bank tư nắm. Vậy trong tổng số tiền của Mỹ,
tỷ lệ của mổi thứ tiền là bao nhiêu?
Đ-: Tiền coin của
CPLB đúc chỉ khoảng một phần ngàn tổng số tiền của Mỹ, cộng với tổng số
tiền giấy xanh của FED phát hành, thành ra cái được gọi là “tiền sờ thấy
được” [tangible currency] chỉ có lối 10% tổng số tiền được cung cấp
[American Money Supply]
H-: Sao kỳ vậy? Còn 90% kia là tiền gì ở đâu ra?
Đ-: Phần 90% còn lại là tiền ma [phantom money].
H-: Tiền ma là tiền gì?
Đ-:
Là tiền không có thật, là tiền được tạo ra từ chổ không có gì hết
[money created from nothing], do cái trò ảo-thuật cho vay [gọi là
“loan”] tạo ra.
H-: Thật sự tôi không hiểu được.
Đ-:
Thực ra thì cũng không có gì khó hiểu cho lắm. Trò ảo thuật tạo ra tiền
từ con số không [create money out of nothing] dựa trên cái gọi là
“fractional reserve banking” do đạo luật tạo ra FED [Federal Reserve
Act] cho phép. Theo đó thì khi mà nhà bank có trong kho của nó một số
tiền X là tiền thật [hồi xưa là vàng, bây giờ là giấy xanh] được coi như
là để dự-trữ [reserve], thì nó có quyền phát ra 10 X [tức là có 9 X
tiền ma, không có bảo đảm reserve].
Thí dụ như tôi gởi vào nhà
bank trong checking account của tôi $ 10,000 thì nhà bank để số tiền đó
trong kho của nó như reserve, và nó có quyền phát ra $100,000 [tức là
trong đó có $ 90,000 là tiền ma, vì không có reserve bảo đảm] Cũng như
thế, Anh B để vào bank trong saving account $ 20,000, thì nhà bank có
quyền phát ra $200,000 [tức có $180,000 là tiền ma]. Tổng cộng nhà bank
có quyền phát ra $300,000 mà trong đó có $270.000 là tiền ma. Rồi khi
Anh C đến mượn nhà bank $300,000 [để mua nhà, sửa nhà hay làm gì khác]
thì nhà bank cho ảnh mượn [dưới hình thức loan] $300,000 đó. Anh C sẽ
trả cho nhà bank số tiền đó cộng với lời [x %] dưới hình thức mortgage
hằng tháng, trong 15 hoac 30 năm chẳng hạn, bằng tiền dollar thật, mà
anh C có được nhờ lương của anh C, hoặc nhờ việc làm [như phòng mạch]
của anh. Tức là nhà bank, nhờ cái ảo-thuật của “loan” đã “create money
out of nothing”.
Thí dụ trên là lấy cá nhân A, B, C làm mẫu,
nên chỉ nói tới tiền với con số ngàn, nếu là nhà buôn, là nhà hàng, là
hãng, là cơ sở sản xuất, thì tiền phải là tới số triệu. Mà cả HCQHK có
hằng bao nhiêu triệu cá nhân, nhà buôn, hãng, xưởng v.v. cần tiền và
phải vay tiền của nhà bank dưới hình thức “loan” thì không có gì lạ khi
thấy rằng trong tổng số tiền cung cấp cho nền kinh tế Mỹ [American money
supply] năm 2005 là $9.7 trillion trong đó tiền thật [tangible
currency] chỉ có $ 1.4 trillion, còn $8.3 trillion là tiền ma. Và sau
này nguyên tắc đó cũng được áp dụng cho việc dùng credit card [Visa,
Master Card, American Express v.v.] với một lãi suất [% interest] còn
cao hơn gấp bội.
II- Một chút lịch sử
H-: Từ đâu, tại sao, và từ hồi nào mới có cái quái thai đó?
Đ-:
Anh nói là “quái thai” thì cũng đúng, nhưng học giả Mỹ thường ví FED
như một con “Hydra”. Theo từ-điển Hydra là một con rắn có chín đầu
[trong thần thoại] hể chặt đầu này thì nó mọc đầu khác, và nó có nhiều
cái vòi [tentacles] rất dài để bắt mồi từ xa. FED [con hydra dưới hình
thức hiện tại] sanh ra nhờ cái Federal Reserve Act năm 1913 do Tổng
Thống Woodrow Wilson ký [về sau ông hối tiếc]. Còn từ đâu và tại sao có
nó, thì phải xem lại hết cái lịch sử của HCQHK vì trong dĩ vãng nó cũng
đã bị chặt đầu nhiều lần, mổi lần lại sống lại với một tên khác.
H-: Anh có thể tóm tắt cho chúng tôi biết một chút không?
Đ-:
Tôi sẽ cố gắng tóm lược tối đa một câu chuyện dài mấy thế kỷ và chiếm
vài trăm trang trong mỗi sách nói đến chuyện ấy mà tôi có dịp đọc.
Ở
Trung học chúng ta học
trong sách rằng HCQHK hồi xưa là 13 thuộc địa của Anh-quốc. Đến năm
1774, để phản đối việc mẫu-quốc Anh đánh thuế vào trà [tea tax] một buổi
tiệc trà được tổ chức ở Boston [Boston Tea Party]. Trong dịp đó một số
người Mỹ giả làm người da đỏ nhảy lên tàu chở trà và vất các thùng trà
xuống biển. Bị chánh quyền cai trị đàn áp, những đoàn dân quân được
thành lập để chống trả lại, và Ông Benjamin Franklin triệu tập một Hội
Nghị gọi là Congress ở Philadelphia để đưa ra “Bản Tuyên Ngôn Quyền Của
Người Mỹ Có Đống Thuế ” [Delaration des Droits du Contribuable
Americain] năm 1774. Sau đó, với sự chiến thắng của đoàn dân quân của
Massachusetts , Congress cho ra Bản Tuyên Ngôn Độc Lập [Déclaration
d’Indépendance ngày 4-7-1776.] Rồi dưới sự chỉ huy của
Tướng George Washington, quân Mỹ đánh thắng quân Anh dưới quyền Tướng
Cornallis ở Georgetown năm 1781, và theo Hòa Ước Versailles năm 1785
Anh-Quốc công nhận cho HCQHK độc lập.
Nhưng sau này một số học
giả, sau khi đọc kỹ lại những tác phẩm của chính ông Benjamin Franklin
viết hồi thời ấy, mới thấy là sự thật phức tạp hơn nhiều.
1-
Vì không có tiền vàng hay bạc, nên kể từ năm 1691, các thuộc địa của Anh
trên đất Mỹ phát hành tiền giấy gọi là “Colonial Scrip” để trả lương
cho công chức và để cho dân xài trong việc mua bán trao đổi hàng hóa,
trả tiền công v.v. Mà người chủ nhà in lại chính là Ông Benjamin
Franklin, người làm việc cho dân, vì dân, không tìm cái lời cái lợi
trong việc in giấy bạc nên chỉ phát hành đúng theo nhu cầu, cần
bao nhiêu thì phát hành bấy nhiêu, nên không cần lấy thuế của dân để
chánh phủ có tiền, mà không tạo ra sự lạm phát [inflation] hay sự kém
phát [deflation] nên vật giá và giá lao công [product and service] vẫn
được điều hòa và cân bằng. Nhờ vậy mà các thuộc địa trở nên rất phồn
thịnh, không có thất nghiệp, không có ăn mày, trong lúc ở London của
mẫu-quốc ngoài đường có đầy ăn mày và người lang thang lêu lổng [The
streets are covered with beggars and tramps]. Thì các chủ nhà bank Anh
[the British bankers] lobby triều đình, nên năm 1751, vua George II ra
lệnh cấm các thuộc địa phát hành tiền giấy, mà phải dùng tiền “coins”
của mẩu-quốc [do các nhà bank Anh đã hợp thành một thể dưới tên là Bank
of England phát hành]. Vua George III kế vị vua cha từ năm 1752 giữ
nguyên
lệnh ấy. Khiến các thuộc địa bị ảnh hưởng tai hại. Vì thiếu tiền coins
[do mẩu quốc siết để tạo sự kém phát deflation], người làm ruộng hay
trồng tỉa không có đủ tiền mướn người làm nên lúa không ai gặt, trái
không ai hái. Người có hãng xưởng không đủ tiền mướn thợ, hàng hóa không
được sản xuất. Toàn dân trong một vùng đất rộng lớn của 13 thuộc địa bị
nghèo đói không gia đình nào không bị ảnh hưởng, nên họ đứng lên chống
đối chính quyền và đó là nguyên nhân sâu xa của cuộc Cách Mạng Mỹ năm
1774. Cái ”Boston Tea Party” chỉ là giọt nước làm tràn cái bình.
2-
Việc đầu tiên Congress làm là phát hành tiền giấy được gọi là “the
Continental” dưới hình thức IOU [I owe you.] nghĩa là giấy nợ mà Chánh
Phủ Cách Mạng cam kết
sẽ trả lại bằng tiền coins [vàng hay bạc] sau này. Lối chừng 200 triệu
dollars dưới hình thức “continental scrip” được phát hành để chi phí cho
cuộc chiến giành độc lập. Mẫu quốc Anh phản ứng bằng cách in tiền giả
đổ ào ạt vào thị trường các thuộc địa, gây ra môt cuộc đại-lạm-phát, làm
cho đến ngày độc lập tiền “the Continental” hầu như không còn giá trị
gì hết. Thế là mẫu-quốc thua trên chiến trường, nhưng thắng trên mặt
trận kinh tế [dính liền với tài chánh].
3- Vì thấy tiền
Continental gần như không còn giá trị, nên các nhà “Quốc Phụ Lập Quốc
[the Founding Fathers], không còn tin tưởng nơi giấy bạc, nên trong Hiến
Pháp được viết ra, các ngài không nói tới tiền giấy mà ghi rằng
Congress có quyền “coin money” [thay vì “create
money”] và có quyền vay tiền dựa trên uy tín của chánh phủ [“and to
borrow money on the credit of the United States]. Thì các nhà bank của
mẫu-quốc Anh cũ, là các ngân hàng Anh quốc tư nhân; xâm nhập vào HCQHK
tạo dựng US Bank theo mẫu của England Bank. Mà England Bank từ thời
thành lập cho đến ngày hôm nay là do các nhóm tài phiệt tư nhân gốc gác
Hòa-lan [Amsterdam] nắm và chính các nhóm này xâm nhập vào hệ thống US
Bank, khai thác lỗ hở to tát đó [the enormous loophole] mà nói rằng
chiếu theo Hiến Pháp chánh phủ chỉ có quyền phát hành coins, và nhà bank
có quyền phát hành tiền giấy. Vì tiền coins thì cồng kềng và quá nặng
khi cần tới nhiều, nên nhà bank in giấy cam két sẽ trả lại đúng số coins
[bằng vàng hay bạc] ghi trên giấy, thì dân chấp nhận coi những giấy ấy
như là
tiền.
4- Rồi với thời gian qua, các nhà bank để ý rằng rất ít
người trở lại nhà bank để đòi lấy lại đồng tiền coins. Trung bình hằng
năm chỉ có độ 10% người làm việc đó, còn 90% người còn lại thì không bao
giờ thấy đến đòi lấy lại tiền coins. Cho nên nhà bank nghĩ rằng họ có
thể phát hành thêm 90% nữa mà không sao. Đó là nguồn gốc của cái gọi là
“fractional reserve” dẫn tới việc phát hành tiền ma.
5- Tổng
Thống Thomas Jefferson (1801-1809) vị T.T. thứ ba của Mỹ thấy cái nguy
hại cho đất nước và gọi liên đoàn các nhà bank [the banking cartel] là
”một con quái vật ăn thịt ngưởi có cái đầu của con Hydra” và ông nói
rằng “Nếu dân Mỹ để cho nhà bank kiểm soát việc phát hành tiền tệ của
mình, thì trước hết bằng sự lạm
phát [inflation] rồi bằng sự kém phát [deflation] các nhà bank và các
công ty [corrporations] sẽ phát triển và tước đoạt hết tài sản của dân,
còn con cháu chúng ta sẽ thức dậy vô gia-cư, trên cái lục địa mà cha mẹ
của chúng đã chiếm được.” Nên năm 1811 Congress không chấp nhận gia hạn
cho đặc quyền [renew the charter] cho First U.S.Bank. Khiến cho chiến
tranh với Anh quốc [the War of 1812] bùng nổ. Chiến tranh đưa quốc gia
đến lạm phát [inflation] và nợ nần [debt]. Vì những lý do đó, Tổng Thống
James Madison (1809-1817) vị T.T. thứ tư của Mỹ, phải ký một đặc quyền
20 năm [a twenty year charter] cho Second Bank of The United States vào
năm 1816.
6- Tổng Thống Andrew Jacksaon (1829-1837) vị T.T.
thứ 7 của Mỹ veto dự luật của Congress cho phép tiếp tục ban đặc quyền
cho Second
Bank of the United States. Trong bản veto ông viết:” Không có cái gì
nguy hại cho sự tự do và độc lập của chúng ta hơn là khi mà hệ thống nhà
bank nằm trong tay của người ngoại quốc. Kiểm soát tiền tệ của chúng
ta, lấy tiền của dân ta, và bắt giữ cả ngàn công dân của chúng ta phải
lệ thuộc, thì còn đáng sợ hơn và nguy hiểm hơn là một thủy binh hay một
quân đội của địch”.
Nhưng ông cũng biết cái veto chỉ là bước
đầu của cuộc chiến với nhà bank nên ông nói: “ Con hydra của sự đồi bại
mới bị chặn lại chớ chưa chết”. Ông ra lệnh cho ông Tổng Trưởng Tài
Chánh [Treasury Secretary] mới của ông, chuyển hết tiền deposit của
chánh phủ từ Second US Bank qua các nhà bank của Tiểu Bang [state banks]
thì ông này từ chối không làm. Ông T.T. cách chức
ông ấy, và bổ nhiệm một người khác. Ông này cũng từ chối không làm thì
T.T. Jackson bổ nhiệm người thứ ba, ông này thi hành lệnh nên T.T.
Jackson vui mừng mà nói: “ Tôi đã trói được con quái vật rồi ” .Nhưng
ông chủ nhà Bank, lobby được Senat không chấp thuận người được Tổng
Thống bổ nhiệm và gây ra một cuộc khủng hoảng kinh tế với việc siết chặt
sự cung cấp tiền, để tạo ra một sự kém phát [deflation] bằng cách hồi
[call in] các “loan” cũ, không cho thêm “loan” mới, nên một sự hoảng
hốt tài chánh [a financial panic] xảy ra trong dân chúng, đám báo chí đổ
tội vào đầu Tổng Thống Jackson. Nhưng may thay Ông Governor của
Pennsylvania [là nơi có trụ sở của nhà bank] xuất hiện để ủng hộ T. T.
Jackson và phê bình nhà bank rất gắt gao và kế hoạch
làm lũng đoạn kinh tế của nhà bank bị phơi bày trước công chúng.
Cho
nên đến tháng 4- 1834 Hạ Viện [House of Representatives] với 134 phiéu
thuân và 82 phiéu chống, đã hủy bỏ việc tái ban đặc quyền [rechartering]
cho Second U.S.Bank. Đến tháng 1- 1835 thì T.T. Jackson trả được hết
các nợ của chánh phủ. Rồi ngày 30-1-1835, khi T.T. Jackson đến Capitol
để dự tang lễ của Dân-biểu Warren R. Davis của South Carolina thì ông bị
mưu sát bởi một tên thợ sơn “điên”(?) núp trong rotunda cách ông có
sáu feet bắn hai phát đều trật. Nhưng sau khi T.T. Jackson đóng cửa nhà
bank trung ương [Central Bank] thì tiền giấy được dùng là những
banknotes của của các nhà bank tư của các Tiểu Bang, hứa sẽ trả lại bằng
vàng hay bạc chớ không phải là tiền của quốc gia [national
currency].
7- Sau T.T. Jackson, ông tổng thống dám đánh con
Hydra tiền tệ là T.T. Abraham Lincoln (1861-1865), vị T.T. thứ 16 của
Mỹ. Liền sau khi ông đắc cử và trước khi ông nhậm chức thì Nội Chiến
Nam-Bắc [The Civil War] bùng nổ (1860) vì vấn đề “Nô-lệ” [Slavery]. Các
nhà bank của vùng phía Đông [tức là thuộc về Union ] đề nghị cho chính
phủ vay $150 triệu với bách phân lời quá nặng từ 24 tới 26%. T. T.
Lincoln từ chối và quyết định chính phủ sẽ in tiền lấy. Tiền in ra có
tên chính thức là “United Note’ nhưng dân chúng quen gọi là “Greenback”
vì phía sau in bằng mực màu xanh lá cây. Tiền được quan niệm không phải
là một giấy nợ [IOU] với cam kết trả lại bằng vàng hay bạc, mà là một tờ
giấy chứng nhận công lao cho xã hội. Công lao sản xuất
[product] từ lúa gạo, trái cây cho tới vải sồ và vật dụng, công lao
dịch vụ [service] từ thợ, cai, đến giám đốc, công lao bảo vệ an ninh
trật tự, và gìn giữ đất nước, từ lính cảnh sát đến lính và quan trong
quân đội, công lao điều khiển bộ máy cai trị, từ thơ ký đến giám đốc đến
nguyên thủ quốc gia. Lãnh lương là lãnh giấy chứng nhận công lao, để
mua thức ăn đồ dùng là trao giấy chứng nhận công lao của mình để nhận
lấy món hàng được sản xuất với công lao tương đương của người bán.
Vì
tiền được in ra vừa đúng nhu cầu của dân, cho dân và vì dân, chớ không
phải vì tư lợi nào hết, cũng như hồi thời Ông Benjamin Franklin lúc Hoa
kỳ còn là 13 thuộc địa phồn thịnh, nên trong có bốn năm tại chức mà
ngoài việc chiến thắng
loạn Miền Nam được Anh giúp tiền, và việc giải phóng bốn triệu người nô
lệ, T.T. Lincoln đã thực hiện cho nước Mỹ những công tác vĩ đại như:
xây dựng và võ trang một quân đội lớn nhứt thế giới lúc bấy giờ, biến
Hoa-kỳ thành một nước kỹ-nghệ khổng lồ [industrial giant], kỹ nghệ thép
[steel industry] được thành lập, một hệ thống hỏa-xa xuyên lục-địa dược
xây dựng, Bộ Canh Nông được thành lập để thúc đẩy viêc chế tạo máy và
dụng cụ làm ruộng rẻ tiền, một hệ thống đại học miễn phí được thành lập
nhờ Land Grant College System, lập lên những bộ máy hành chánh cho các
vùng miền Tây, tăng mức sản xuất lao động [labor productivity] lên từ 50
đến 75 %. Tất cả những viêc ấy thực hiện được là nhờ một việc rất giản
dị là chính
chánh phủ phát hành tiền. Tức là cái đầu của con Hydra tiền tệ đã bị
T.T.Lincoln chặt đứt.
Nhưng đến ngày 14-4-1865, thì một
kịch-sĩ tên là John Wilkes Booth ám sát T.T. Lincoln trong lúc Ông đang
xem tuồng hát Our American Cousin trong rạp hát Ford’s Theatre ở
Washington. Thế là con Hydra lại có cơ mọc đầu trở lại. Và đầu nó mọc
lại thật, vì dân vẫn thích có tiền vàng nên tiền greenback mất giá dần
dần đối với đồng dollar vàng. Thì các nhà bank phát hành banknotes bảo
đảm trả lại bằng vàng. Dân chúng tin nên dùng những banknotes đó như
tiền thật, cho tới năm 1913 thì một con hHdra mới xuất hiện nhờ luật
Federal Reserve Act 1913.
III- Tân hydra chào đời
H- : Tai sao có Luật đó?
Đ-:
Vì năm 1907 xẩy ra một cuộc “
Khủmg Hoảng Tài Chánh” [a Financial Panic] nên năm 1908 T.T.Theodore
Roosevelt (1901-1909), vị T.T. thứ 26 của Mỹ, cho thành lập cái National
Monetary Commission để chỉnh đốn vấn đề tài chánh. Chủ tịch của
Commission đó là ông Nghị Sĩ Nelson Aldrich [bên ngoại của David
Rockefeller Sr.]. Ông Aldrich dẫn cả đám commission đi tour sang Âu-châu
để nghiên cứu trong vòng hai năm. Rồi khi trở về, ông lập lên một cách
hoàn toàn bí mật, một nhóm gọi là “The First Name Club” vì cấm triệt để
không được nhắc tới Last Name để cho đầy tớ và người làm, dù có nghe
trộm được cũng không biết là ai, để nói lại cho người ngoài và báo chí
biết là có những ai. Nhóm đó gồm có một số người được chọn lọc rất cẩn
thận trong giới tài chánh và ngân hàng. Trong số đó người sẽ
đóng vai trò quan trọng nhất là ông Paul Warburg (1868-1932) người gốc
Đức di cư sang Mỹ năm 1904, có quốc tịch Mỹ năm 1911 và là thành viên
của ngân hàng Kuhn, Loeb and Company Bankers ở New york [thuộc tài sản
của Rothschild].
“First Name Club” được triệu tâp đến một hòn
đảo nhỏ bé, riêng biệt và vắng vẻ có tên là đảo Jekyll Island, ở
Georgia, họp trong chín ngày liên tiếp, để viết một dự luật cải tổ hệ
thống nhà bank và luật pháp tiền tệ [the banking and currency
legislation] đệ trình lên Congress.
H-: Trong dự luật có cái gì là đặc biệt?
Đ-:
Có rất nhiều cái đặc biệt. Trước hết là cái tên: vì dân đã quá ghét,
nên phải tránh cho kỳ được cụm-từ “Central Bank” rồi phải làm sao cho
dân tưởng rằng cơ quan này là của
chính phủ, do nhân viên chính phủ điều khiển vì vậy mà có danh từ
“Federal” và “Reserve“ [chớ không phải là Central Bank] và có Governing
Board mà ông chủ tịch là do T.T. bổ nhiệm, và trong đó có hai nhân viên
chánh phủ, mà trong thực tế thì Governing Board không điều khiển được
chính sách của cơ quan. Rồi phải dùng những danh từ mờ ám khó hiểu để
che giấu thực ý như trong Lời Mở Đầu [Preamble] của dự luật nói: Mục
đích của luật là để cho FED có thể “cung cấp một thứ tiền co dãn” [to
furnish an elastic currency] nghĩa là gì?
Trong thực tế nghĩa
là tiền mà nhà bank đã có thì nhà bank có thể, tùy nghi, thổi phồng lên.
Rồi như danh từ “tái chiết khấu “[rediscounting] nghĩa là gì? Trong
thực tế nghĩa là: một kỹ thuật cho phép nhà bank dùng để
tăng gia tiền hiện có trong quỹ của nó, bằng cách cho vay thêm mà không
cần chờ cho tới khi các loan trước hết hạn. Kết quả là Luật cho phép
một nhà bank trung ương tư [a private central bank] tạo ra tiền từ chỗ
không có gì hết [create money out of nothing] rồi cho chính phủ vay số
tiền đó để lấy lời và kiểm soát sự cung cấp tiền cho quốc gia bằng cách
bơm phồng nó lên hay hút bớt nó xuống tùy theo ý muốn [control the
national money supply, expanding or contracting it at will.]
H-: Thế mà không có Ông Nghị sĩ hay Dân biểu nào thấy sao?
Đ-:
Có chớ. một số thấy và la làng lên .Như ở Hạ Viện Dân Biểu Charles
Lindbergh Sr. [bố của phi công trứ danh Lindbergh] nói:” Luật tạo ra FED
là một cái tội phạm pháp tệ hại nhất của mọi thời đại. Hệ thống
tài chánh đã bị lật lại cho một nhóm người chỉ biết lợi dụng. Hệ thống
là của tư-nhân, có mục tiêu duy nhứt là lấy cho được những cái lợi tối
đa từ việc xử dụng tiền của người khác “.
Và cũng còn một số
dân biểu và nghị sĩ khác nữa la làng lên nhưng họ không đủ để đánh bại
số dân biểu và nghị sĩ đã bị mua chuộc, đúng như lời của một người trong
nhóm Rothschild ở London nói với một hội-viên của nhà bank ở New York
ngày 25-6-1863 rằng: “Một số ít người hiểu cái hệ thống đó là gì, thì
hoặc là vì thấy có lợi cho mình, hoặc là vì đã lệ thuộc vào những ân huệ
đang được hưởng, nên sẽ không có sự chống đối từ những hạng người đó.
Còn nhóm đa số người không có đủ trí khôn để hiểu, thì sẽ chịu cái
gánh nặng mà không than phiền”.
Bởi vậy cho nên ngày
18-9-1913, dự luật được Hạ Viện chấp thuận với 287 phiếu thuận và 85
phiếu chống, rồi lên Thượng Viện ngày 19-12-1913, dự luật được chấp
thuận với nhiều sửa đổi bằng 54 phiếu thuận và 34 phiếu chống. Đến đây
lại có một việc lạ nhất chưa bao giờ xẩy ra trong lịch sử của HCQHK, là
trong cái bản văn của dự luật ở Hạ Viện có cho tới 40 điểm mà Thượng
Viên không đồng ý nên đã sửa lại. Sau khi Thượng Viên biểu quyết, hai
Viện phải ngồi chung lại để sửa lại sao cho cả hai bên đều đồng ý. Thế
mà việc ấy được thực hiện chỉ trong một ngày cuối tuần. Đến ngày Thứ hai
22-12-1913 dự luật được biểu quyết ở Hạ Viện với 282 phiếu thuận và 60
phiếu chống, rồi cùng
ngày chuyển sang Thượng Viện cũng được chấp thuận luôn với 43 phiếu
thuận và 23 phiếu chống. Rồi T.T. Woodrow Wilson (1913-1921), vị T.T.
thứ 28 của Mỹ ký thành luật ngày hôm sau thứ ba 23-12-1913.
Tất
cả những việc ấy xẩy ra một cách hết sức mau lẹ và trái ngược với tục
lệ và truyền thống của Quốc Hội và của Chính Phủ Mỹ là không bao giờ Lập
Pháp Congress [Thượng và Hạ Viện] thảo luận và biểu quyết một Dự Luật
vào lúc gần Noel, để cho Congress xả hơi [thường thường là kể từ 15, 17
Dec.] và các Nghị Sĩ và Dân Biểu về quê của mình ăn mừng Christmas và
New Year, và không bao giờ Hành Pháp [Chánh Phủ] ký một Đạo Luật vào
Noel để cho T.T. về nhà riêng hay trang trại của mình ăn mừng Christmas
và New Year. Thế mà kỳ này Thượng Viên hợp
lại, thảo luận, và biểu quyết ngày Thứ Sáu 19 Dec. Rồi cả hai viện làm
việc với nhau weekend 20-21 Dec, để ngày Thứ Hai 22-Dec cả hai viện hợp
lại, thảo luận và biểu quyết dự luật, để sang ngày Thứ Ba 23 Dec. T.T.
ký thành Luật.
Dân Biểu Lindbergh nói ở Hạ Viện: “Dự luật này
thành lâp cái “trust” khổng lồ nhất trên thế giới. Khi mà T.T. ký cái dự
luật này (thành Luật), thì cái chánh phủ vô hình của Mãnh Lực Tiền Tệ
sẽ được hợp-pháp-hóa. Dân chúng có thể không biết chuyện đó ngay, nhưng
rồi họ sẽ biết sau vài năm mà thôi”. Trong lúc đó thì báo chí [đã ở
trong tay của “Mãnh Lưc Tiền Tệ”] thì ca tụng hết lời. Báo New York
Times chạy tít lớn ở trang đầu: “Tổng Thống Wilson ký Dự Luật Tiền Tệ để
sự phồn thịnh được tự do
và sẽ giúp mọi giai cấp.
H-: Thế là con Hydra được khai sinh là đứa con hơp pháp của HCQHK để lớn lên với đất nước?
Đ-: Hay đúng hơn thì phải nói “để lớn lên với đứa em song thai”.
H-: Nói gì lạ vây, đứa em song-thai nào?
Đ-:
Khi nhóm của Nghị Sĩ Nelson Aldrich có ông Paul Warburg chuẩn bị viết
dự luật FED để trình cho Congress, họ đã tiên đoán rằng với sự áp dụng
luật này thì CPLB sẽ mắc nợ FED càng ngày càng nhiều nên phải tìm cách
làm sao cho phép chánh phủ đánh thuế vào dân để có tiền trả nợ cho FED.
Thế là họ kèm theo dự luật FED một Tu-Chỉnh Hiến Pháp [là the Sixteenth
Amendment] cho phép CPLB đánh thuế income tax vào dân. Lúc ấy bản văn
của Tu-Chỉnh chỉ có một trang giấy và nguyên bộ Luật về
thuế má chỉ có14 trang mà bây giờ thì nó dày đến 17.000 trang, cũng như
nợ của chánh phủ do FED gây ra lớn lên từ số không cho tới bây giờ là
$8.5 trillion.
H-: Bộ trước đó dân không phải đóng income tax cho CPLB sao?
Đ-: Không, trước 1913, dân chỉ đóng thuế income cho Tiểu Bang của mình mà thôi.
H-: Đã được hơp-pháp-hóa rồi, con Hydra còn phá phách gì nữa không?
Đ-:
Nói là phá phách thì không hẳn là phá phách, nhưng khi được
hơp-pháp-hóa rồi thì FED hoạt động tích cực hơn, nên gây tai họa cho
dân.
H-: Tai họa gì?
Đ-: Cuộc Đại Khủng Hoảng [The Great Depression] năm 1930.
H-: Bằng cách nào?
Đ-:
Bằng cách tạo ra tiền “out of nothing” qua trò ảo-thuật “loan”. Để
khuyến
khích dân vay tiền, nên FED hạ thấp bách phân lời [% interest] thì dân
ùn ùn vay nợ để có tiền tiêu xài thả ga. Nhà bank thảy vào nền kinh tế
quốc gia một số tiền khổng lồ, tạo ra một cuộc lạm phát [inflation]. Rồi
nói là để kềm hảm sự lạm phát, thì lại siết chặt việc cung cấp tiền,
thu hồi các loan đả phát ra, không cho vay loan mới, thì dân thiếu nợ
phải vội vàng bán nhà cửa ruộng đất để trả nợ, nên những người có liên
hệ với “Mãnh Lực Tiền Tệ [Monetary Power] có tiền mua những bất động sản
ấy với giá rẻ mạt. Còn con cháu những người thiếu nợ thì trở nên vô gia
cư, vô nghề nghiệp đi lang thang thất thểu ngoài đường như hồi Mỹ còn
là 13 thuộc địa dưới thời các vua George II và vua George III, trước
ngày Cách Mạng Mỹ [American
Revolution] năm 1774. Nhưng nhờ chánh sách “New Deal” của T.T.Franklin
D.Roosevelt (1933-1945) vị T.T. thứ 32 của Mỹ và việc lập lên cái FDIC
[Federal Deposit Insurance Corporation] mà tình thế trở lại yên ổn. Giáo
sư Milton Friedman, Nobel Prize về kinh tế, viết: “Nhất định là FED đã
gây ra cuộc Đại Khủng Hoảng vì thu rút lại một phần ba [1/3] số tiền
đang lưu hành từ năm 1929 tới năm 1930”.
Còn Ông Louis T.
McFadden Chủ tịch The House Banking and Currency Commttee, thì nói:
“Cuộc khủng hoảng không phải là bất ngờ ngẫu nhiên mà là một việc được
trù liệu rất cẩn thận … Những chủ nhà bank quốc tế tìm cách đem đến đây
sự thất vọng để rồi họ có thể trở thành nhưng kẻ ra lệnh cho tất cả
chúng ta”
H-: Thế rồi kể từ đó không có Ông T.T. nào
dám đụng tới FED nữa?
Đ-: Có chớ, T.T. John F. Kennedy, (1961-1963) vị T.T. thứ 35 của Mỹ. Ngày 4-th.6-1963
T.T. Kennedy ký một Hành Pháp Lệnh [an Executive Order số 11110] cho
phép CPLB phát hành tiền mà không phải qua FED bằng cách cho phép Bộ Tài
Chành The Treasury phát hành những giấy chứng nhận bạc đối với mọi thoi
bạc, bạc, hay là mọi dollar dựa trên bản vị bạc của Bộ [the power to
issue silver certificates against any silver bullion, silver or standard
silver dollars in the Treasury] Nghĩa là một khi Bộ Tài Chánh có trong
kho một ounce bạc nào, thì Bộ có quyền phát hành ra một giấy bạc để lưu
hành trong nền kinh tế. Như vậy T.T.Kennedy đã tung ra $4.3 tỷ dollars
cho lưu hành. Thế là FED bank của New York sẽ phá sản, vì dân chúng biết
rằng các giấy chứng nhận bạc
[silver certificates] của Chính Phủ được bạc yểm trợ [backed by silver]
chớ giấy bạc của FED [Federal Reserve Notes] không có cái gì yểm trợ
hết. Lệnh số 11110 nói trên còn giúp chánh phủ trả hết nợ của mình mà
không phải qua FED để trả tiền lời, do FED tạo ra tiền out of nothing.
Tức là trên thực tế lệnh số 11110 cho CPLB quyền tạo ra tiền của mình có
bạc yểm trợ, đúng theo Điều I, Phần 8 của Hiến Pháp Hoa Kỳ.
Năm
tháng sau, ngày 22-11-1963, T.T.Kennedy bị tên Lee Harvey Oswald ám sát
và tên này hai ngày sau bị Jack Ruby (Rubenstein) giết chết trong
Dallas Police Station.
H-: Như thế thì phải chăng là một
nhóm tài phiệt cai trị xứ này vì người ta hay nói: “Ai nắm được tiền là
nắm được quyền” phải không?
Đ-: Tôi không dám trả lời
là phải hay là không [yes or no] vì tôi không đọc được sách nào nói rõ
là đã có một tòa án nào kết án một người nào trong giới Mãnh Lực Tiền Tệ
[the Monetary Power] hay một vị nào trong nhóm những Nam Tước Trộm Cắp
[the Robber Barons] về tội dùng tiền của mình mua được quyền thế. Cho
nên tôi xin để cho quý bạn đọc mỗi người kết luận theo ý kiến của mình.
Tôi
chỉ xin phép nhắc lại lời nói của Ông Nathan Rothschild hồi năm 1838:
“Để cho tôi phát hành và kiểm soát tiền của một quốc gia, thì tôi cóc
cần biết ai viết luật pháp”, và tôi cũng xin phép nhắc lại số phận của
những vị Tổng Thống đã có gan dám chặt đầu con Hydra tiền tệ: T.T.Andrew
Jackson bị mưu sát, T.T.Abraham Lincoln và T.T.John F.Kennedy bị ám
sát.
B.S. Nguyễn Lưu
Viên
Không có nhận xét nào:
Đăng nhận xét