7 Kỳ Quan Thế Giới Cổ Đại
1. Vườn treo Babylon.
2. Hải đăng Alexandria.
3. Tượng thần Zeus ở Olympia (chúa tể của các vị thần Hy Lạp do nhà điêu khắc vĩ đại Pheidias tạc).
4. Đền Artemis ở Ephesus, Tiểu Á (Thổ Nhĩ Kỳ) được dựng lên để tôn vinh nữ thần săn bắn và thiên nhiên hoang dã của Hy Lạp.
5. Lăng mộ vua Maussollos tại Halicarnassus, chúa tể xứ Caria vùng vịnh Percic.
6. Bức tượng khổng lồ thần mặt trời Helios do người Hy Lạp dựng lên tại một cảng gần đảo Địa Trung Hải có tên tượng Rhodes.
7. Kim tự tháp Giza, một cấu bằng đá khổng lồ gần thành phố cổ Memphis, nơi chôn pharaoh Ai Cập Khufu. Kim tự tháp Giza là kỳ quan duy nhất trong bảy kỳ quan cổ đại còn tồn tại đến hôm nay. Kỳ quan biến mất sau cùng là hải đăng Alexandria.
2. Hải đăng Alexandria.
3. Tượng thần Zeus ở Olympia (chúa tể của các vị thần Hy Lạp do nhà điêu khắc vĩ đại Pheidias tạc).
4. Đền Artemis ở Ephesus, Tiểu Á (Thổ Nhĩ Kỳ) được dựng lên để tôn vinh nữ thần săn bắn và thiên nhiên hoang dã của Hy Lạp.
5. Lăng mộ vua Maussollos tại Halicarnassus, chúa tể xứ Caria vùng vịnh Percic.
6. Bức tượng khổng lồ thần mặt trời Helios do người Hy Lạp dựng lên tại một cảng gần đảo Địa Trung Hải có tên tượng Rhodes.
7. Kim tự tháp Giza, một cấu bằng đá khổng lồ gần thành phố cổ Memphis, nơi chôn pharaoh Ai Cập Khufu. Kim tự tháp Giza là kỳ quan duy nhất trong bảy kỳ quan cổ đại còn tồn tại đến hôm nay. Kỳ quan biến mất sau cùng là hải đăng Alexandria.
Và
hiện nay, không chỉ các nhà khảo cổ học mà nhân loại tiến bộ trên thế
giới đều hết sức lo lắng và bất bình trước thông tin báo chí đã nêu gần
đây: Vườn treo Babylon ở Iraq, một trong 7 kỳ quan thế giới đã tồn tại
hơn 5.000 năm nay có nguy cơ bị biến mất. Đúng vậy, vườn treo nổi tiếng
này hiện đang dần trở thành đống hoang tàn vì sự tàn phá của những lính
Mỹ tại Iraq. <còn nguyên nhân vì sao xin được miễn nêu ra vì liên
quan đến chính trị, mong các bạn thông cảm
Công thức tưới tiêu của vườn treo Babylon
II. HẢI ĐĂNG ALEXANDRIA :
Hải đăng Alexandria do triều đại Ptolemy xây dựng trên đảo Pharos ngoài khơi thành phố Alexandria thủ đô Ai Cập một thời, nơi có thư viện Alexandria nổi tiếng. Alexandria được mệnh danh là hòn ngọc lấp lánh của Địa Trung Hải, thành phố lớn thứ hai và là cảng chính của Ai Cập hiện nay. Alexandria do kiến trúc sư Dinocrates (332 – 331 TCN) xây dựng tại vị trí của một ngôi làng cổ Rhakotis theo ý nguyện của Alexander đại đế để bất tử hoá tên ông. Không bao lâu sau, Alexandria trở thành trung tâm văn hoá, chính trị, kinh tế và tri thức của Ai Cập. Đến nay nhiều di tích vẫn còn tồn tại, Alexandria là thủ đô của triều đại Ptolemy với vô số tượng đài, đền miếu. Nơi đây mọc lên hải đăng Alexandria và thư viện Alexandria. Các nhân vật lịch sử của Ai Cập, La Mã như Cleopatra, Julias Caesaz, Mark Antony và Octavian đều có dính líu ít nhiều đến thành phố này. Alexandria nằm ở tây bắc sông Nile trải dài trên dải đất hẹp giữa Địa Trung Hải và hồ Mariut. Nó có hai xa lộ lớn và một đường xe lửa đẫn đến Cairo. Thành phố là nơi nghỉ mát mùa hè nổi tiếng nhất Trung Đông. Hải đăng Alexandria có lẽ là kỳ quan duy nhất trong bảy kỳ quan cổ đại được sử dụng vào mục đích phục vụ cuộc sống hằng ngày. Nó hướng dẫn cho tàu bè đi lại an toàn tại cảng lớn. Đối với các kiến trúc sư thì hải đăng còn là công trình xây dựng cao nhất thế giới, và là tấm gương phản chiếu ánh sáng vào ban ngày (ban đêm sử dụng đèn báo) vẫn còn là điều bí ẩn đối với nhiều nhà khoa học. Theo sử sách, tấm gương nhìn thấy từ xa 50 km. Không lâu sau Alexander đại đế mất, vị tướng Ptolemy Soter của ông lên nắm quyền tại Ai Cập. Chính Ptolemy đã đôn đốc việc xây dựng thành phố Alexandria, thủ đô mới. Ngoài khơi thành phố là đảo nhỏ Pharos. Đảo nối với đất liền bằng con đê biển Heptasđaion được xem là cảng thứ hai của thành phố. Tàu buồm đi lại tấp nập quanh và trong khu vực cảng nên cần có một ngọn hải đăng hướng dẫn để không mắc cạn tại dải bờ biển thoai thoải không dốc. Ptolemy vạch kế hoạch xây dựng ngọn hải đăng vào năm 230 TCN nhưng khi ông mất nó mới hoàn tất dưới triều đại của Ptolemy Philadelphus, con trai ông. Sostratus, người cùng thời với Euclid, là kiến trúc sư trưởng công trình nhưng bản tính toán chi tiết hải đăng và các công trình phụ trợ do thư viên Alexandria làm. Hải đăng được dâng hai vị thần cứu rỗi : đó chính là Ptolemy Soter và Berenice, vợ ông. Trong hàng thế kỷ, hải đăng Alexandria, còn được gọi là đèn biển Pharos phát huy hiệu quả rất tốt trong việc hướng dẫn tàu bè. Hình ảnh của nó được in trên cả các đồng tiền La Mã. Khi người Arập chinh phục Ai Cập họ hết sức khâm phục Alexandria và sự giàu có của thành phố này. Nhưng giới cầm quyền mới dời thủ đô đến Cairo để cắt đứt sự nối kết với Địa Trung Hải. Tấm gương trên ngọn hải đăng được tháo ra một cách bất cẩn nên không thể lắp đúng vào chỗ cũ. Năm 956 SCN, một trận động đất gây thiệt hại nhẹ cho ngọn hải đăng. Hai trận động đất mạnh sau đó (1303 và 1323) tiếp tục gây thiệt hại lớn cho công trình. Năm 1449, thương buôn Arập nổi tiếng Ibu Battuta nói là ông ta không thể đi vào công trình đã đổ nát này. Chương cuối cùng của hải đăng Alexandria khép lại vào năm 1480 khi phó vương Ai Cập Mamelouk quyết định củng cố hệ thống phòng thủ của Alexandria bằng cách xây một công sự kiên cố ngay trên vị trí của ngọn hải đăng bằng cách sử dụng chính các vật liệu lấy từ nó. Mô tả chính xác, chi li nhất về hải đăng Alexandria là mô tả của thương buôn Arập Abou–Haggay Al–Andaloussi. Ghé thăm hải đăng năm 1166, ông nêu chi tiết sự tráng lệ của lớp đá cẩm thạch bao quanh ngọn tháp. Theo ông thì tấm gương trên ngọn hải đăng có công dụng đốt cháy các chiến thuyền của kẻ thù trước khi nó lọt vào cảng. Ngoài phần bệ, hải đăng có ba tầng : khối vuông thấp nhất cao 55,9 m có lõi tròn, khối giữa cao 27,45 m và khối trên cùng cao 7,3 m có hình tròn. Chiều cao tổng cộng của ngọn hải đăng là 117 m tính từ cột mốc số 0 là mực nước biển, tương đương ngôi nhà cao bốn mươi tầng. Trên nóc hải đăng là tượng thần Poseidon (thần biển cả, có bộ râu trắng, tóc trắng mắt xanh với dải băng cuốn quanh đầu như thần Zeus).
Poseidon
là con của thần Cronus và thần Rhea. Cronus đã nuốt Poseidon vào bụng
nhưng lại nhả ra để ông lớn lên với các anh chị khác. Khi Cronus bại
trận Poseidon trở thành vua biển cả và vua các hòn đảo. Có lúc Poseidon
được mô tả như vị thần trần truồng tay cầm đinh ba mà thần bão Cyclopes
đã cho ông. Cây đinh ba biểu tượng cho vương quốc Poseidon, vương quốc
thứ ba của vũ trụ (tức biển cả).
III. TƯỢNG THẦN ZEUS Ở OLYMPIA :
Đây
là bức tượng của vị thần mà các cuộc thi tài thể thao Olympic cổ được
tổ chức để tôn vinh ông. Tượng đặt tại thành phố cổ Olympia, nằm ở bờ
biển phía tây Hy Lạp hiện nay, cách thủ đô Athens 150 km. Theo lịch Hy
Lạp cổ bắt đầu từ năm 776 TCN thì các cuộc thi đấu cũng bắt đầu từ năm
đó. Bức tượng Zeus kỳ vĩ do kiến trúc sư Libon thiết kế và được xây dựng
vào năm 450 TCN. Vào thời điểm nước Hy Lạp đang hùng mạnh, ngôi đền
kiểu Doric quá tầm thường đơn giản nên cần có các sửa đổi lớn. Giải pháp
là đặt một bức tượng khổng lồ trong đền. Điêu khắc gia Athens được giao
nhiệm vụ "thiêng lieng"^ này. Nhiều năm sau đó, ngôi đền
thu hút số du khách và người hành hương đến từ khắp nơi trên thế giới.
Bước sang thế kỷ II TCN, bức tượng được tu sửa chút ít rồi đến thế kỷ I
SCN, hoàn đế La Mã Caligula tìm cách đưa bức tượng về Rome nhưng giàn
giáo do các nhân công của Caligula xây dựng bị đổ sụp. Sau khi các cuộc
thi đấu Olympic bị cấm năm 391 SCN, hoàng đế Theodosius cũng ra lệnh
đóng cửa đền Zeus. Sau đó thành phố Olympia bị động đất, trượt đất và
ngập lụt tấn công. Đến thế kỷ V SCN, đền lại bị lửa làm hư hại. Nhưng
trước đó, bức tượng đã dược những người Hy Lạp giàu có chuyển đến
Constantinople và tượng đứng vững tại đây cho đến khi nó bị lửa làm
thiệt hại nặng vào năm 462 SCN. Hôm nay bức tượng không còn lại gì ở
ngôi đền cũ, trừ đá và vụn
cát cùng nền và những chiếc cột bị gãy của ngôi đền. Điêu khắc gia
Pheidias bắt đầu xây dựng bức tượng vào năm 440 TCN. Vài năm trước đó,
ông đã phát triển một kỹ thuật đặc biệt dùng cho việc xây dựng các bức
tượng bằng vàng và ngà. Kỹ thuật này sử dụng các khung gỗ lắp ghép như
giàn giáo để phủ những tấm kim loại quý hoặc ngà voi lên mặt ngoài công
trình. Hiện di tích nhà xưởng của Pheidias ở Olympia vẫn tồn tại. Nó
bằng kích cỡ và theo đúng hướng với ngôi đền Zeus cũ. Tại xưởng này,
Pheidias cho đẽo, khắc những phần khác nhau của tượng trước khi mang đến
đền lắp ghép. Nhưng khi bức tượng hoàn tất, ngôi đền lại quá nhỏ so với
nó. Một số người cho rằng bức tượng không cân xứng với chiều cao dền.
Thần Zeus ở trong tư
thế ngồi, nếu ông đứng lên ngôi đền sẽ bị bung mái. Nhưng cũng có người
khen ngợi ý đồ của Pheidias. Chính nguy cơ ngôi đền bị bung mái khi
"vua các vị than"^` đứng lên đã tạo cảm hứng cho nhiều nhà thơ và sử
gia. Bệ của tượng có bề rộng 6,5 m cao 1 m. Tượng cao 13 m tương đương
với ngôi nhà bốn tầng. Bức tượng cao đến nỗi các du khách chỉ có thể mô
tả về chiếc ngai vàng thần Zeus ngồi chớ không thấy rõ chi tiết cơ thể
ông. Phần chân của chiếc ngai được trang trí bằng các tượng nhân sư và
những vị thần chiếc thắng có cánh. Thần Apollo, Artemis và con gái của
thần Niobe đều có mặt. Theo ghi chép của sử gia Hy Lạp Pausanias thì
trên đầu của thần Zeus là chùm tia Olive. Tay phải ông giữ biểu tượng
chiến thắng làm bằng vàng và ngà voi. Tay
trái ông giữ một quyền trượng có con ó đậu ở đỉnh. VÀI DÒNG VỀ THẦN ZEUS
Là
con của thần Kronos và thần Rheia, Zeus theo gương cha : lật đổ chính
người sinh thành ra mình. Khi Kronos giết cha (thần Uranus), người cha
có điềm báo là ông cũng sẽ bị con trai bức hại. Do sợ hãi và tham lam,
Kronos nuốt những đứa con đầu ngay lúc chúng ra đời nhưng khi Rheia sinh
hạ đứa con thứ sáu Zeus bà đánh lừa chồng bằng cách đưa cho ông cục đá.
Kronos nuốt cục đá và lời nguyền trở thành hiện thực. Zeus được nuôi
nấng bí mật cho đến ngày đủ lớn để phục kích Kronos lúc đi săn. Ông đá
Kronos vào bụng mạnh đến nỗi người cha già nua đã ói ra hòn đá và năm
đứa con (cả trai và gái) chưa tiêu hoá được. Đó là các thần Demeter,
Hades, Hestia, Hera và Poseidon. Sau đó Zeus tuyên bố là lãnh tụ
của các vị thần thống trị các đỉnh núi và những đám mây. Ông cưới Hera
xinh đẹp, chị mình. Thần Zeus có nhiều mục tiêu phải hoàn thành trước
khi cuộc chiến thành Troy kết thúc. Người Hy Lạp bao vây thành Troy được
sự hỗ trợ của các vị thần Hera, Athene, Poseidon, Ares và Aphrodite nên
trước sau gì họ cũng thắng. Trong lúc đó, thần Zeus đối mặt với cuộc
nổi loạn trên đỉnh Olympus. Sau khi thần Aphrodite và thần Ares bị
thương ở thành Troy, Zeus ra lệnh cho tất cả các vị thần đứng ngoài cuộc
chiến. Riêng ông sẽ đích thân đến ngọn Ida để chỉ huy cuộc dẹp loạn và
tạo uy thế cho Hector yêu dấu, chủ nhân Ida. Có nhiều con các vị thần
tham gia cuộc chiến thành Troy. Con trai Sarpedon của Zeus chết tại
chiến trường trên tay đứa con trai khác là Aias.
Aphrodite bị thương khi bảo vệ thần Aineias. Askalaphos, con trai của
Ares cũng bị giết và cả Achilleus con trai nữ thần Tethys cũng phải hy
sinh. Có lúc cuộc chiến thất thế cho người Hy Lạp đến nỗi Hera buộc phải
ra tay bằng cách đánh lừa Zeus để bí mật tung Poseidon vào cuộc chiến
giúp người Achaian (Hy Lạp). Nhưng tiếng thét của Poseidon làm Zeus thức
dậy khi đang ngủ, ông phát hiện ra Hera đánh lừa mình bằng nhan sắc và
một đêm hoan lạc, phát hiện ra sự cứng đầu không vâng lời của Poseidon.
Ông cử Hera đến Olympus đưa Iris và Apollo về. Iris được giao nhiệm vụ
qui cố hương cho Poseidon, còn Apollo được giao trách nhiệm đẩy lùi
người Achaian về tàu của họ như một cách trừng phạt. Thoả mãn với những
gì đạt được Zeus ra lệnh cho các vị thần tập trung ở
Olympus. Ông cho phép họ chọn một trong hai bên giao chiến và tham gia
chiến trường nếu thích. Sau đó Odysseus, vua vương quốc Ithaca đã dùng
mưu mẹo đánh chiêm thành Troy (ngựa gỗ thành Troy) với sự giúp đỡ của
các vị thần nhưng sự kiêu ngạo của Odysseus đã làm cho thần Poseidon tức
giận và phải mất mười năm ông mới qui được cố hương.
IV. ĐỀN ARTEMIS Ở EPHESUS :
Artemis
không chỉ đơn thuần là một ngôi đền mà còn là công trình kiến trúc đẹp
nhất thế giới theo đánh giá của các triết gia cổ đại. Đền được xây dựng
để tôn vinh nữ thần săn bắn và thiên niên hoang dã của Hy Lạp, vị trí
nằm tại thành phố cổ Ephesus gần thị trấn đương đại Selcuk cách thành
phố Izmir (Thổ Nhĩ Kỳ) 50 km về phía nam. Dù nền ngôi đền có từ thế kỷ
thứ VII TCN, Artemis chỉ mới được xây dựng sau đó 150 năm. Công trình
đặt dưới sự bảo trợ của vua Croesus và do kiến trúc sư Hy Lạp Chersiphon
thiết kế. Đến làm bằng đá cẩm thạch, trang trí bằng nhiều tượng đồng,
sản phẩm của các thiên tài điêu khắc Pheidias, Polycleitus, Kresilas và
Pheadmon. Đền vừa là chợ vừa là cơ sở tôn giáo. Trong nhiều năm nó là
nơi tụ hội của các thương buôn, du khách, nghệ sĩ và các vị vua đến để
bày tỏ lòng tôn kính đối với nữ thần và dâng tặng đồ tế lễ. Các khai
quật khảo cổ mới đây cho thấy nhiều tặng vật được chôn vùi, từ các tượng
thần Artemis làm bằng vàng và ngà voi đến các vòng, nhẫn, lac…('' có
gốc gác xa như Ấn Độ và vùng Persca (Iran hiện nay). Đêm 21–07–356 TCN,
một người đàn ông Herostratus đốt đền với mục đích bất tử hoá tên mình
cùng ngôi đền. Có một sự trùng hợp kỳ lạ, cũng vào đêm đó Alexander đại
đế ra đời. Về sau sử gia Plutarch viết rằng "do quá bận chăm sóc sự ra
đời của Alexander nên nữ thần Artemis không rảnh tay bảo vệ ngôi đền thờ
minh"`. Hai thập
niên sau, đền được phục hồi. Khi Alexander chinh phục Tiểu Á, ông góp
sức xây dựng lại ngôi đền. Vào thế kỷ thứ I, sau thiên chúa giáng sinh,
thánh Paul ghé thăm Ephesus để truyền đạo thiên chúa nhưng người dân
vùng này không có ý định bỏ rơi nữ thần của họ. Đến năm 262 SCN, đền lại
bị người Goth phá huỷ lần nữa. Dù các cư dân Ephesus thề sẽ khôi phục
lại ngôi đền nhưng đến thế kỷ thứ IV, do đa số họ đã chuyển sang đạo
thiên chúa nên đền không còn ý nghĩa tôn giáo nữa. Sau đó thành phố
Ephesus bị bỏ hoang cho đến thế kỷ XIX nó mới được khai quật. Công trình
đào bới đã làm lộ nền ngôi đền và con đường dẫn đến đền. Bước thứ hai
là phục hồi một số cột để phục vụ du khách. Nền đền Artemis có hình chữ
nhật giống như
đa số ngôi đền nào vào thời kỳ đó. Tuy nhiên khác với các công trình
cùng tuổi, Artemis có tầm nhìn bao quát các khu vườn rộng. Các bậc thềm
quanh đền dẫn đến những cây cột đá cao 20 m. có 127 cây cột đá, và tất
cả đều được trang trí rất đẹp. Sàn đền rộng 80 m x 130 m. trong đền chứa
nhiều công trình nghệ thuật kể cả bốn bức tượng đồng cổ Amazon do các
nghệ sĩ lỗi lạc nhất vào thời đó khắc. Theo sử sách thì khi thánh Paul
đến thăm đền, nó còn có cả những cây cột mạ vàng và nhiều tượng bằng
bạc. Ngoài ra còn nhiều bức tranh vẽ tuyệt mỹ. Dù không có chứng cứ lưu
lại về bức tượng Artemis đặt giữa ngôi đền nhưng người ta tin rằng nó
đứng ở đó cho đến lúc đền bị đốt.
VÀI NÉT VỀ NỮ THẦN ARTEMIS
Artemis và Apollo là hai con của thần Zeus và thần Leto. Cả hai đều
sinh ra tại đảo Delos và gắn liền số phận với một loại cung tên : Apollo
cung cong còn Artemis cung bạc. Artemis là một trong ba người không bị
mê hoặc bởi thần Aphrodite (hai người kia là Hestia và Athene). Artemis
là bạn với loài người. Nữ thần nhảy múa khắp vùng thôn dã trong đôi xăng
đan bạc để bảo vệ các loài thú hoang, nhất là thú nhỏ. Nàng cưỡi chiếc
xe ngựa bạc băng qua bầu trời và bắn tên xuống mặt đất dưới ánh trăng.
Giống như các thần Olympia khác, Artemis không thể bảo vệ được người
thợ săn thiện xạ Shamandos trước mũi giáo của người Menelao trong trận
đánh thành Troy. Khác với Apollo, Artemis không thiện chiến nhưng bà có
thể trừng phạt và giết chóc theo lệnh của Zeus. Trong trường ca THE
ILIAD, Leto, mẹ của Artemis bị một phụ nữ Niobe lăng nhục. Niobe khoe
khoang rằng bà có mười hai đứa con trong khi đó Leto chỉ có hai. Để
trừng phạt Leto, Apollo giết sáu đứa con trai của bà ta, còn Artemis
giết sáu đứa con gái. Trong trường ca THE ODYSSEY, Odysseus kể câu
chuyện về hòn đảo kỳ thú Syria, nơi không có chỗ cho cái đói và tuổi
già. Khi thần số phận quyết định các cư dân cao quí của hòn đảo phải
chết, Artemis và Apollo ra tay bằng những mũi tên không gây đau đớn.
Artemis thường bị nhập chung với nữ thần La Mã Diana.
V. Lăng mộ vua Maussollos tại Halicarnassus, chúa tể xứ Caria vùng vịnh Percic
Halicarnassus là thủ đô của một vương quốc nhỏ nằm bên bờ Địa Trung Hải. Năm 353 trước CN, vua Mausolus qua đời. Nữ hoàng Artemisia cũng là em gái của ông (theo tục lệ ở Caira thì người cai trị vương quốc phải kết hôn với em gái mình) quyết định xây một khu mộ thật lớn cho người chồng của mình. Ngôi mộ trở thành một công trình kiến trúc nổi tiếng thế giới đến nỗi cái tên Mausolus sau này đồng nghĩa với từ "ngôi mộ". Ngôi mộ cao bằng một tòa nhà 14 tầng. Vua Mausolus không nổi tiếng nhưng chính ngôi mộ đã khiến cho cả nhân loại biết đến ông.
VI. Bức tượng khổng lồ thần mặt trời Helios
VII. KIM TỰ THÁP GIZA
Phía
bờ tây sông Nile, sừng sững những Kim tự tháp hùng vĩ. Hình dạng độc
đáo với nền móng vững chắc tiếp đất và chóp nhọn chọc trời là minh họa
cho một sự kết hợp giữa trình độ kỹ thuật cùng sự cam kết tâm linh của
người Ai cập cổ đại. Thời
hoàng kim về xây dựng kiến thiết của Ai cập kéo dài trong suốt Thời kỳ
thứ 3, từ 2868 đến 2613 trước CN. Mục đính chính của các Kim tự tháp là
nơi hầm mộ chôn cất các pharaoh và các quan chức cao cập của triều đình.
Nền
móng của nền quân chủ Ai cập dựa trên sự bất tử của các pharaoh, do vậy
xác nhận sự tồn tại của "kiếp sau". Kim
tự tháp vừa để tôn vinh các pharaoh, vừa là nơi các vị này chờ đợi
trước khi được gia nhập vào thế giới mới. Người Ai cập cổ đã đạt tới
trình độ hoàn thiện trong kỹ thuật ướp xác để gìn giữ cơ thể sau khi
chết, và thường trữ đầy trong các Kim tự tháp những tiện nghi sinh hoạt
cung đình mà các pharaoh tỏ ý nguyện muốn đem theo vào kiếp sau. Kim
tự tháp vĩ đại nhất, cũng là kiến trúc duy nhất còn tồn tại ngày nay
trong số 7 kỳ quan của thời cổ đại, là Kim tự tháp Giza, xây dựng trong
thời kỳ cai trị của Cheops, tên Hy lạp
của Vua Khufu (2545-2520 trước CN). Tại thời điểm nó được xây dựng, Kim
tự tháp này cao cỡ 482 phút, trải rộng một diện tích chừng 13 hec-ta và
nặng ít nhất 6.5 tỉ tấn. Napoleon tính toán rằng lượng đá xây nên Kim
tự tháp này, trên 2 300 000 khối, có thể tạo nên một bức tường dày 1
phút bao quanh Pháp với độ cao 10 phút. Tầm vóc khổng lồ của Kim tự tháp
Giza cũng được tương xứng bởi thiết kế chính xác. Mỗi cạnh của nền tháp
dài 776 phút, chênh lệch nhau không quá 7.9 inches; các khối đá được
xếp chồng khít tới mức không thể nhét xen kẽ giữa chúng dù chỉ một tờ
giấy mỏng. Các cạnh tháp chạy hầu như chính xác từ bắc tới nam, đông qua
tây, sai lệch chừng 4 độ không hơn. Vào
thế kỷ 19, khi các
nhà khảo cổ học phát hiện ra các Kim tự tháp, sức hấp dẫn của chúng đã
làm nảy sinh cả một trường phái ngụy khoa học. Giới theo "Kim tự tháp
học" miệt mài làm việc hòng tìm ra một "đơn vị Kim tự tháp", một đơn vị
chuẩn đã cho phép người Ai Cập cổ đại xây dựng nên các công trình với sự
chính xác siêu phàm. Các chuẩn như pi, khối lượng và chu vi TD, khoảng
cách từ TD tới Mặt trời đã được gợi ý. Một số thì đề đạt giả thuyết các
Kim tự tháp đóng vai trò các văn bản đá, ghi chép mã hóa toàn bộ lịc sử
chi tiết của thế giới con người. Các
nhà Kim tự tháp học thậm chí còn dài dòng phóng đại giải thích quy
trình các công trình vĩ đại này được xây dựng. Một giả thiết được phổ
biến khá rộng rãi trong thế kỷ 20 là các tảng đá khổng lồ ấy đã được
chuyên chở tới TD bởi các sinh vật ngoài hành tinh, thả xuống vị trí
hiện tại của chúng bằng các UFO Sự
thật đằng sau sự tạo thành của các Kim tự tháp không hề kém phi thường,
có chăng nó chỉ không mang tính chất hoang đường như các giả thuyết
trên. Chu trình xây dựng bắt đầu với việc đẽo các tảng đá được mang về
từ các mỏ khai thác cách đó chừng 600 dặm xa, tại Aswan. Đa số các nhà
sử học cho rằng các tảng đá này được thả trôi theo bè xuôi sông Nile
trong mùa lũ, mặc dù không có bằng chứng khảo cổ nào của các bè gỗ lớn
đủ để chuyên chở các khối đá có kích cỡ khổng lồ ấy. Đá được chuyển về,
tại
công trình, việc đầu tiên của các nhân công lao động là tạo ra một mặt
bằng móng bằng cách dẫn nước ngập vào bãi, tạo nên một hệ thống kênh
rạch sau đó đào sâu cho tới khi mực nước khắp nơi cân bằng. Vòng đai
ngoài được thiết lập, rồi cắt tới mức độ thích hợp, đôi khi một vài tảng
đá cực lớn được giữ nguyên. Một
con đường lề bằng đá được làm bên bờ sông Nile nhằm phục vụ cho quá
trình bốc dỡ. Các khối đá được kéo trên các xe trượt trụ trên các trục
lăn từ vị trí cách xa chừnng nửa dặm tới công trường. Tại đây, đội thợ
nề và thợ đẽo đá sẽ bào nhẵn bề mặt đá, chuẩn bị cho việc xây dựng. Khi
đã sẵn sàng,
những khối đá khổng lồ được lăn vào vị trí, một quá trình gây nhiều
tranh cãi bởi thực tế là vòng xe và dây tời kéo phải 800 năm sau đó mới
xuất hiện tại Ai cập. Một vài học giả cho rằng người Ai Cập cổ đã chế ra
các bậc cầu thang tam cấp dài theo độ cao dần của công trình với một độ
nghiêng cố định; số khác gợi ý về một cầu thang xoắn dài theo tòa tháp.
Đá được đẩy tới đầu cầu thang, rồi đặt vào trên nền vữa lỏng, bỏ yên
tĩnh cho tới khi khô. Đường cầu thang này được tháo dỡ dần sau khi đỉnh
tháp đã được dựng xong, và những người thợ nề có trách nhiệm mài nhẵn bề
mặt đá trên đường đi xuống. Lượng
nhân công đã tham gia xây dựng nên tòa tháp này được nhà sử
học Hy Lạp Herodotus dự đoán là 100 000 người, thay thế sau mỗi giai
đoạn 3 tháng, trong suốt 20 năm, dù đây có lẽ là một con tính hơi bị
cường điệu hóa. Một trại lính cổ đại phát hiện được ở gần đó có sức chứa
4000 người, và có vẻ như có tới vài trại lính ở xung quanh tòa tháp.
Nhân công xây dựng không phải là nô lệ, công việc không bị ép buộc lao
dịch, gây ra sự nghi ngờ với các truyền thuyết từ Kinh thánh về các quản
đốc hà khắc dã man. Một bản khắc trên tường một hầm mộ một pharaoh
tuyên bố rằng ông ta chưa bao giờ đánh một công nhân đủ mạnh để làm
người đó ngã.
__._,_.___
Không có nhận xét nào:
Đăng nhận xét