Chủ Nhật, 31 tháng 5, 2015

THẢO MỘC GẮN LIỀN THEO ĐỨC PHẬT

THẢO MỘC GẮN LIỀN VỚI ĐỨC PHẬT 
PHẠM ĐÌNH LÂN, F.A.B.I.
 
                

          Người khai sáng ra Phật Giáo là thái tử Siddharta Gautama (563-483 trước Tây Lịch). Đó là năm sinh và năm viên tịch được nhiều người chấp nhận hiện nay. Đạo Phật có ba nhánh chính:

– Phật Giáo Đại Thừa (Mahayana Buddhism): Trung Hoa, Nhật, Triều Tiên, Việt Nam.
– Phật Giáo Tiểu Thừa (Hinayana hay Theravada Buddhism): Sri Lanka, Miến Điện, Thái Lan, Cambodia, Lào.
– Hoàng Giáo Tây Tạng (Vajrayana hay Tantrayana): Tây Tạng, Mông Cổ.

Căn cứ vào những tiểu sử của đức Phật, hoàng hậu Mahamaya nằm chiêm bao thấy một con voi trắng sáu ngà, dùng ngà có hoa sen húc vào hông bà. Sau đó hoàng hậu mang thai. Hoàng hậu lâm bồn trong vườn Lumbini, Nepal, dưới tàn cây Shala (cây vô ưu). Vừa chào đời hài nhi biết đi và biết nói. Người nhảy bảy bước. Mỗi bước nhảy có một hoa sen nở ra. Đó là thái tử Siddharta Gautama. Năm 29 tuổi thái tử từ giã vợ con và chức quyền sắp có trên một vương quốc nằm dọc theo dãy Hy Mã Lạp Sơn để đi tìm chân lý. Sau nhiều năm theo phái khắc khổ, Người vẫn không tìm ra chân lý, trái lại thân xác gầy gò và suýt chết. Một hôm ngồi dưới gốc cây bồ đề, Người được một phụ nữ dâng một chén cơm và một ly sữa để bồi dưỡng thân thể. Sau khi uống xong ly sữa, Người đắc đạo dưới gốc cây bồ đề. Người được gọi là Sakya Muni (Thích Ca Mâu Ni) tức nhà hiền triết tộc Sakya hay Buddha (đấng Giác Ngộ) tức Phật. Đức Phật thu nhận đệ tử, đi khắp nơi để truyền giảng đạo và viên tịch năm 80 tuổi.

Tôi tạm tóm lược tiểu sử của Đức Phật từ ngày đản sinh đến ngày viên tịch để đề cập đến những loại thảo mộc gắn liền với Đức Phật như: cây shala hay cây vô ưu, hoa sen, cây bồ đề, lúa gạo và nấm truffle căn cứ vào giả thuyết về bữa ăn cuối cùng của Đức Phật. Bài viết hoàn toàn không có màu sắc tôn giáo mà chỉ nhấn mạnh đến khía cạnh thực vật học của cây cỏ gắn liền với Đức Phật. Phần cuối của bài có một số giả thuyết tóm lược từ các cuộc nghiên cứu về bữa ăn cuối cùng của Đức Phật trên khía cạnh khoa học. Xin người đọc bình tâm trước những lời giải thích của các nhà khoa học. Nhờ sự mạnh dạn tìm hiểu nguồn gốc của mọi sự vật một cách khách quan và khoa học, chúng ta mới được hưởng những tiện nghi hiện có thay vì nhìn các hiện tượng trong vũ trụ bằng sự huyền hoặc, hoài nghi và sợ sệt.


Cây Vô Ưu

Đức Phật chào đời dưới tàn cây vô ưu. Có hai loại cây vô ưu:
– cây shal hay shala
– cây ashoka
Về cây shala lại có một loại thảo mộc được người Indonesia gọi là Sala và người Ấn Độ gọi là Naga linga và được gọi là thánh mộc. Tôi nói qua về 3 loại cây nầy vì cả ba đều được xem là thiêng mộc trong Ấn Giáo (Hinduism) lẫn Phật Giáo.
 
Cây Vô Ưu Shala, cây Vô Ưu Ashoka và cây Thánh Mộc
1. Cây Vô Ưu Shala: Tên khoa học của cây vô ưu Shala là Shorea robusta thuộc gia đình Dipterocarpaceae như cây sao, cây dầu, nghĩa là loại cây có trái có cánh. Cây cao từ 30-40m; lá rộng; hoa màu trắng rất thơm. Hoa nở vào tháng 4 dương lịch hàng năm. Cây vô ưu shala có nhiều ở Ấn Độ, các xứ vùng Hy Mã Lạp Sơn, Bangladesh. Người Ấn Độ gọi là Sal, Shala ; tiếng Sanskrit (Phạn): ashvakarma.
 
2. Cây Vô Ưu Ashoka: Theo tiếng Sanskrit ashoka có nghĩa là vô ưu. Do đó người Anh gọi là sorrowless tree hay ashoka tree. Người Ấn Độ gọi là Vanjulam. Cây vô ưu ashoka tức cây vàng anh cao từ 20-30m. Lá rộng, đầu lá nhọn. Hoa to, cánh bầu tròn màu đỏ-vàng, nhụy dày đặc. Hoa thơm và đẹp. Tên khoa học của hoa vô ưu ashoka là Ashoka saraca thuộc gia đình Fabaceae. Cây ashoka liên hệ đến Thần Rama và vợ là nữ Thần Sita của Ấn Giáo và Đức Phật. Đó là nguồn thuốc của phụ nữ, biểu tượng cho sự sinh sản. Đến ngày lễ Ashok Shasthi phụ nữ Ấn Độ ăn hoa ashoka để được vô ưu. Nhiều phụ nữ cầu tự bằng cách nhảy múa dưới cây ashoka. Người ta cũng tin rằng Đức Phật ra đời dưới cây ashoka vì có sự lẫn lộn giữa cây shala vô ưu với cây ashoka vô ưu. Vỏ cây vô ưu ashoka sắc uống trị rối loạn tử cung, huyết tiện, tử cung xuất huyết, u bướu, da mất sắc tố v.v…
 
3. Thánh Mộc Naga Linga: Loại thảo mộc nầy được tìm thấy nhiều ở Nam Mỹ Châu, Ấn Độ, Miến Điện, Thái Lan, Sri Lanka. Tên khoa học là Couroupita guianensis thuộc gia đình Lecythidaceae. Người Tamil gọi là Naga Linga (Naga: con rắn được tín đồ Ấn Giáo quí trọng; Linga: dấu hiệu của Thần Shiva trong Ấn Giáo. Linga-Yoni là bộ phận sinh dục của Nam và Nữ tượng trưng cho sự sinh hóa trong vũ trụ). Người Ấn Độ gọi là Shiva Linga. Người Anh gọi là cannon ball tree vì trái tròn, to bằng cái tô giống như trái đạn đại bác hay monkey pot (nồi khỉ vì khỉ dùng tay bóc ruột trái chín để ăn). Người Indonesia gọi là Sala tựa như cây Shala Shorea robusta. Cây Naga Linga cao từ 20-30m; lá to và có hương thơm. Hoa màu đỏ-vàng rất đẹp kết thành một chuỗi dài 3m. Trái nhiều, tròn và to như cái tô, vỏ cứng, cơm nhiều khi chín có mùi thơm nhưng có người lại cho là mùi không chịu nổi như trường hợp trái sầu riêng. Ngoài loài khỉ, loài người cũng ăn trái cây nầy được. Vỏ và lá thánh mộc Naga Linga dùng như thuốc trụ sinh, kháng nấm, trị cảm, trị đau bụng. Lá giã nát vắt nước dùng trị bệnh ngoài da. Lá cũng được dùng để trị nhức răng. Ở Nam Mỹ người ta dùng vỏ cây Naga Linga sắc nước uống trị sốt rét. Cây Naga Linga thường được trồng quanh đền Thần Shiva hay chùa Phật Giáo ở Ấn Độ, Sri Lanka. Vì trái to và nặng khi rụng trúng đầu người có thể gây nguy hiểm đến tánh mạng nên người ta không trồng cây Naga Linga (cây nồi khỉ hay cây đạn thần công) ngoài đường như trường hợp cây dừa vậy.
 
 
 
Hoa Sen
Hoa sen là hoa thiêng trong Ấn Độ và Phật Giáo Đại Thừa, Tiểu Thừa và Hoàng Giáo Tây Tạng. Tên khoa học của hoa sen là Nelumbo nucifera thuộc gia đình Nelumbonaceae . Người Ấn Độ gọi hoa sen là Kamala. Tiếng Sanskrit cũng gọi là Kamala hay Padma. Người Anh gọi là Sacred lotus (Sen thiêng), Indian sacred lotus.
 
Hoa sen đỏ liên hệ đến Thần Vishnu và sen trắng liên hệ nữ Thần Sarasvati.
Lá sen, ngó sen, hột sen, nhụy hột sen, củ sen đều có công dụng. Hoa sen vừa có tính biểu tượng, vừa đẹp vừa có hương thơm. Hoa sen tượng trưng cho sự thanh khiết của một loài hoa mộc dưới nước nhưng:
Gần bùn mà chẳng hôi tanh mùi bùn.
Ngoài đặc tính là thức ăn ngon và bổ dưỡng toàn thân, hoa sen còn được xem là một nguồn thuốc. Hoa sen có alkaloids nuciferine C19H21NO2 và apomorphine C17H17NO2 có tác dụng trị chứng bất lực sinh lý. Ngó sen, củ sen và hột sen được dùng để cầm máu, trị loét dạ dày, xuất huyết hậu sản, kinh nguyệt quá đà (ngó sen), nhuận trường, trị tiêu chảy, kiết lỵ, bán thân bất toại, mất ngủ, di mộng tinh, bất lực sinh lý, hạ huyết áp, hạ cholesterol, hưng phấn các sớ thịt tử cung (hột, củ sen) v.v…
Phật mẫu Mahamaya thấy voi trắng dùng ngà có hoa sen trắng chạm vào hông. Voi trắng là voi thiêng biểu tượng cho sự sinh sản và sự khôn ngoan. Sự xuất hiện của voi trắng như là sự báo hiệu của sự xuất hiện của đấng siêu phàm. Hoa sen trắng (bạch liên) là hiện thân của nữ Thần Satasvati. Bảy đóa hoa sen (bảy bước) là Đông, Tây, Nam, Bắc, Thượng, Hạ, Trung Tâm. Có phải chăng số 7 tượng trưng cho 7 ngôi sao trong chòm Đại Hùng Tinh (Ursa Major) của Sao Bắc Đẩu trên vòm Trời?



Cây Bồ Đề
Đức Phật ngồi thiền và đắc đạo dưới cây bồ đề ở Bodh Gaya, tiểu bang Bihar, Ấn Độ. Cây bồ đề là thiêng mộc đối với Ấn Giáo và Phật Giáo. Tín đồ Ấn Giáo tin rằng Thần Vishnu ra đời dưới cây bồ đề và Thần Krishna chết dưới gốc cây bồ đề. Huyền thoại Ấn Độ tin rằng gốc và rễ cây bồ đề là Thần Brahma; thân cây là Thần Vishnu và lá là Thần Shiva. Người Ấn Độ gọi cây bồ đề là Peepal (pipal). Tiếng Sanskrit (Phạn) là pipala, bodhi; Sri Lanka: Bo; Thái Lan: bodhi. Bodhi có nghĩa là sự khôn ngoan. Người Anh phải gọi cây bồ đề là Sacred bodhi (cây bồ đề thiêng), bodhi tree vì họ biết người Ấn Độ, tín đồ Ấn Giáo lẫn Phật Giáo đều tôn kính cây bồ đề.
Tên khoa học của cây bồ đề là Ficus religiosa thuộc gia đình Moraceae. Không phải thảo mộc mang tên khoa học Ficus religiosa nào cũng được xem là cây bồ đề thiêng. Chỉ có những cây bồ đề lấy giống từ cây bồ đề ở Bodh Gaya, Bihar, Ấn Độ, nơi Đức Phật Thiền tịnh và đắc đạo mới được xem là có đặc tính đặc biệt xứng đáng gọi là cây bồ đề thiêng. Cây bồ đề Jaya Sri Maha Bodhi ở Anuradhapura, đảo Sri Lanka, lấy giống từ cây bồ đề Sri Maya Bodhi ở Bodh Gaya, Bihar, nơi Đức Phật Thiền tịnh và đắc đạo, được trồng từ năm 288 trước Tây Lịch (2300 tuổi tính đến năm 2012).
Cây bồ đề cùng dòng và cùng gia đình thảo mộc với cây đa. Cây cao lối 20m; lá hình trái tim. Trái chín màu tím đen.
 
Đối với người Ấn Độ cây bồ đề được bao quanh bởi nhiều huyền thoại. Nó có nhiều công dụng và tính năng trị liệu theo y học cổ truyền Ấn Độ. Ở Ấn Độ người ta trồng cây bồ đề ở hướng Đông của nhà hay đền, chùa. Vỏ cây bồ đề có nhiều tannins được dùng trong kỹ nghệ thuộc da. Từ vỏ cây bồ đề người ta khai thác màu nhuộm màu đỏ. Lá bồ đề là nguồn thức ăn cho voi và lạc đà.
Lá, vỏ, rễ, trái cây bồ đề dùng làm thuốc trị suyễn (trái tán thành bột), tiêu hóa, loét, tê thấp, nướu răng đau (rễ), lá già vắt nước nhỏ vào tai bị đau. Vỏ thân tán thành bột trị vết thương, viêm, loét, hoàng đản.



Lúa gạo
Tên khoa học của lúa gạo là Oryza sativa thuộc gia đình Poaceae. Đó là một loại cây lương thực quan trọng ở Ấn Độ, các nước Đông Nam Á, Trung Hoa, Triều Tiên, Nhật Bản, các hải đảo Thái Bình Dương ngày xưa. Cây lúa có năng xuất cao hơn lúa mì. Từ lúa biến thành gạo, cơm nhanh chóng và giản dị hơn từ hột lúa mì biến thành bột mì và tạo ra ổ bánh mì. Dân tộc ăn cơm đều nấu cơm ở nhà nhưng dân tộc ăn bánh mì không thể nhồi bột mì, rải men, cho bột dậy và xây lò để nướng bánh mì trong nhà dễ dàng được.
Cây lúa là nguồn sống của nhân loại, đặc biệt là người Á Châu. Trung Hoa và Ấn Độ là hai nước sản xuất và tiêu thụ nhiều lúa gạo nhất thế giới. Từ gạo người ta làm ra bột, làm bánh, cất rượu, làm giấm và biến chế ra nhiều thức ăn khác. Trấu được dùng nấu nướng thay than củi. Rơm dùng để làm thức ăn khô cho trâu bò. Gốc rạ dùng để nấu nước uống và trị bịnh trái rạ. Người ta ăn gạo lức đề ngừa bịnh thủng. Cám gạo dùng ̣để làm thức ăn cho heo hay để làm một loại bánh ngọt lợ ăn để ngừa bịnh phù thủng. Gạo rang nấu nước giúp cho người bị thổ tả phục hồi lại nước trong thân thể v.v…
 
Ấn Giáo tức đạo Bà La Môn (Brahmanism) là tôn giáo có ảnh hưởng tuyệt đối quan trọng ở Ấn Độ. Xã hội chia ra nhiều giai cấp:

1. Brahmins (Tu Sĩ)
2. Kshatriyas (Quân Nhân)
3. Vaisyas (Thương)
4. Shudras (Công)

Những người Harijans là những người bần cùng, ngoại hạng không thuộc giai cấp nào trong xã hội. Họ bị xã hội chê bai, khinh bỉ và xa lánh đến nỗi không ai dám đụng đến họ vì sợ bị lây nghiệp chướng sâu nặng của họ. Vì vậy người Tây Phương gọi họ là những người Parias hay Untouchables. Ấn Giáo, Phật Giáo, đạo Sikh (Sikhism), đạo Jain (Jainism) đều chủ trương ăn thực vật (Shakahara) và bất bạo động (ahimsa). Phái ăn thịt gọi là Mansahara theo Phạn ngữ (Sanskrit). Nếu ăn thịt thì không ăn thịt heo và thịt bò. Bò được xem là Vật thiêng. Thức ăn thực vật được đề cao. Vấn đề này rất phức tạp vì theo cách diễn dịch của từng địa phương. Người Ấn Giáo ở Nepal không ăn thịt bò nhưng ăn thịt trâu. Người Ấn Giáo ở Ấn Độ không ăn thịt bò cũng không ăn thịt trâu. Có nơi không ăn vịt. Có nơi không ăn hành, tỏi mặc dù thức ăn của Ấn Độ có nhiều hương liệu cay và nồng.
Trong xã hội Ấn Giáo người ăn thịt được xem là người nghèo thuộc giai cấp thấp trong xã hội. Thực phẩm cho những người khất thực phần lớn xuất phát từ những người thuộc giai cấp Thương (Vaisyas), Công (Shudras) trong xã hội. Chắc chắn trong số đó có thịt (gà, vịt, dê, trừu nấu cari v.v…) nhưng tu sĩ khất thực không thể vất ra vì làm vậy là coi thường lòng thành kính của họ đối với người tu hành. Người tu có thể ăn thịt với điều kiện không thấy con thú bị giết và không nghe tiếng rên rỉ, gào thét của nó trong lúc bị giết. Chén cơm mà người phụ nữ dâng cho Phật dưới cội bồ đề không thể là chén cơm trắng? Hay có thể là cơm trắng với cà ri thực vật? Và ly sữa là sữa nấu từ thực vật như đậu nành, đậu phọng chẳng hạn chớ không phải là sữa dê hay sữa bò? Dù là thức ăn chay hay mặn, tất cả đều là lòng thành của người phụ nữ. Nhưng nếu bà chuẩn bị thức ăn để dâng cho người tu thì bà nấu thức ăn chay. Nếu bà không chuẩn bị thì bà có thức ăn gì mà trong nhà dùng thì bà dâng cho. Trong trường hợp thái tử Siddharta ngồi tham Thiền dưới gốc cây bồ đề theo các tu sĩ khắc khổ và gầy gò ốm yếu chắc chắn người phụ nữ nầy chuẩn bị nấu thức ăn bổ dưỡng để dâng cho người tu để cứu Người khỏi cửa Tử Thần khi thực hành phép tu khắc khổ. Thức ăn bổ dưỡng nhằm bồi bổ sức khỏe là thức ăn có thịt hay thức ăn thực vật?


Bữa ăn cuối cùng của Ðức Phật: Thịt heo hay nấm truffle?
Đức Phật và các đệ tử đến làng Pava và được Cunda, một người thợ rèn, nấu món sukara-maddava cho Người dùng. Ăn xong Đức Phật thấy khó chịu vì đau bụng dữ dội. Các đệ tử đưa Người về Kusinagara cách đó lối 10km. Người bị đi kiết ra máu rất nhiều và khát nước vô hạn. Người gọi Ananda kiếm nước cho Người uống. Ananda không thể lấy nước được vì có một đoàn xe bò đi ngang qua dòng nước làm cho dòng nước bị đục và nổi lên nhiều vết đất bùn dơ bẩn. Đức Phật viên tịch ở Kusinagara, tiểu bang Bihar, Ấn Độ, dưới gốc cây shala.

Món sukara-maddava là gì? Theo các bản dịch thì đó là “thịt heo mềm” (sukara: heo) khiến cho người nghiên cứu lẫn các tín đồ Phật Giáo ngạc nhiên vì không lẽ nào Cunda nấu thịt heo cho Đức Phật dùng! Như đã nói, Ấn Giáo (Hinduism-Brahmanism thế kỷ XVI trước Tây Lịch), Phật Giáo, đạo Sikh hay đạo Jain đều đề cao thức ăn thực vật, không lý nào Đức Phật lại dùng thịt heo. Không phải ở Ấn Độ ngày xưa người ta không ăn thịt. Nhưng thịt heo và thịt bò bị cấm chỉ. Sự cấm chỉ nầy có trước khi Do Thái Giáo (Judaism – thế kỷ XI trước Tây Lịch) ở Trung Đông xuất hiện và cấm tín đồ ăn thịt heo. Sau nầy đạo Hồi (Islam – thế kỷ VII) cũng ngăn cấm tín đồ ăn thịt heo. Không lý nào Cunda dám vi phạm điều nầy? Và nếu có, nhằm mục đích gì ông ấy lại phải mạo hiểm như vậy? Điều chắc chắn là món sukara-maddava không phải là món ăn nấu bằng thịt heo vì khi bị quặn đau bụng dữ dội, Đức Phật sợ người ta hiểu lầm Cunda có ý hại Người. Phật chỉ khuyên Cunda đổ bỏ các món sukara-maddava còn lại vì sợ người ăn khác cũng bị đau bụng dữ dội như vậy. Theo sự giải thích của một vị bác sĩ Thái Lan, Mettando Bikkhu, qui y và trở thành Đại Đức thì Đức Phật không bị ngộ độc vì thức ăn của Cunda. Vì chất độc chỉ bộc phát vài tiếng đồng hồ sau khi ăn chớ không phải bộc phát ngay sau khi vừa ăn xong như đã xảy ra với Đức Phật. Vị đại đức bác sĩ nầy cho rằng Phật viên tịch vì già. Một mạch máu bị nghẽn không cung cấp máu cho ruột nên gây sự quặn thắt đau đớn và bị xuất huyết đường ruột mà ông gọi là mesentery infarction (infarctus mesenterium). Chứng bệnh nầy thường xảy ra cho người già.

Vậy món sukara-maddava được dịch là "thịt heo mềm" có vẻ không chính xác vì chỉ có chữ sukara có nghĩa là heo mà thôi. Sau có người dịch là “sự ham thích của heo” tức thực vật được heo ưa thích hay thực vật bị heo giẫm lên (maddita) như măng tre hay nấm chẳng hạn. Ở Ấn Độ có nhiều tên thảo mộc có chữ sukara (Heo) như ta có Hoa Cứt Lợn tức cây Bù Xít Ageratum conyzoides, Cỏ Cứt Lợn Nepeta indica, Cỏ Cứt Heo (Hy Thiêm Thảo) Siegesbeckia orientalis chẳng hạn. Khi đề cập đến thực vật mà trư tộc ham thích, người ta liên tưởng đến nấm truffle có rất nhiều trong tiểu bang Bihar.
 
                                  Tuber melanosporum
 
Gọi là nấm truffle do chữ tuber trong tiếng La Tinh có nghĩa là củ mà ra. Tên khoa học của nấm truffle là Tuber melanosporum thuộc gia đình Tuberaceae. Nấm truffle không có chân và tàng nấm như những loại nấm thông thường. Nó chỉ là một khối tròn như một củ khoai to bằng cái chén. Trên mặt nấm có nhiều đốm lồi lõm và lỗ nhỏ. Nấm không mọc lộ thiên trên mặt đất mà nằm dưới đất như các loại khoai củ. Nấm truffle có nhiều ở Pháp (vùng Périgord) và Ý. Nấm toát mùi của chất kích thích tố của heo đực nên muốn tìm nấm phải dẫn một con heo cái đánh hơi và ủi đất để lấy nấm. Nấm truffle rất quí vì việc tìm kiếm nó rất khó khăn. Vả lại khi ủi đất và gặp nấm, con heo cái vội ăn nấm ngay! Vì vậy ngày nay người ta huấn luyện chó đi tìm nấm truffle thay cho heo cái.

Nấm truffle trắng Tuber magnatum rất đắt tiền. Mỗi pound (453 grams) nấm truffle trắng giá từ 1.000 - 2.000 Mỹ kim. Năm 2007 một chủ sòng bạc ở Macau, Stanley Ho, mua 1,5 ký lô nấm truffle Ý với giá 330.000 Mỹ kim.
 
                                   Tuber magnatum
 
Nấm truffle ở Ấn Độ là nấm Tuber indicum màu đen, không thơm giá khoảng 20 Mỹ kim một pound .
 
                                    Tuber indicum
 
Nếu món sukara-maddava là món nấm truffle thì đó là một món ăn quí giá vô cùng. Nếu Cunda chọn nhầm nấm độc chớ không phải nấm truffle hay xào nấu bằng nồi chảo đồng rỉ ten xanh độc thì không những Đức Phật bị ngộ độc mà các đệ tử cũng bị trúng độc. Như vậy sự giải thích của Đại Đức bác sĩ Mettanando Bhikkhu được xem là khả tín.

Phạm Đình Lân, F.A.B.I.

Thứ Tư, 27 tháng 5, 2015

BÀI THI VĂN LỚP 7 Ở HÀ TĨNH

Mấy Ôn Mệ ơi,
Tui đố ôn/mệ hiểu được câu ni:
 
“Mô rú mô ri mô nỏ chộ/ Mô rào mô bể chộ mô mồ”.
Hiểu được, đãi 1 chầu cà phê.
Nếu chịu thua, thì đọc tiếp.
KBài Thi Văn Lớp 7 Rất Lạ ở Hà Tĩnh

HANOI -- Có một đề thi văn lớp 7 chắc chắn sẽ đánh rớt rất nhiều ngừơi lớn...
Báo Pháp Luật kể rằng trong những ngày qua, nhiều phụ huynh và học sinh không ngừng bình luận về một đề thi học kỳ môn văn lớp 7 ở tỉnh Hà Tĩnh yêu cầu học sinh hãy “dịch” hai câu thơ tiếng Hà Tĩnh sang tiếng phổ thông:

“Mô rú mô ri mô nỏ chộ/ Mô rào mô bể chộ mô mồ”. Đây là đề thi do Phòng GD&ĐT huyện Lộc Hà (Hà Tĩnh) ra.

Bản tin báo PL nói, nhiều học sinh đọc xong đề cũng bỡ ngỡ vì… hơi khó. Phụ huynh chia sẻ trên cộng đồng mạng cho rằng nếu học sinh không am hiểu tiếng địa phương thì sẽ gặp khó khi làm bài. Tuy nhiên, cũng có người cho rằng đề thi thú vị. Một số người lớn ở Nghệ An, Hà Tĩnh sau khi đọc đề cho biết thấy khó để “dịch” hai câu thơ trên. Có người phải “dịch” từng chữ rồi mới “dịch” hoàn chỉnh hai câu thơ trên. Trong ngôn ngữ địa phương vùng Nghệ Tĩnh, “mô” là đâu, ý là ở đâu; “rú” là núi; “mô ri” là ở đâu; “nỏ” là không; “nỏ chộ” là không thấy, chẳng thấy; “rào” là sông; “bể” là biển; “mô mồ” là đâu nào… Sau đó ghép lại thành câu: “Đâu núi đâu rừng đâu chẳng thấy/ Đâu sông đâu biển thấy gì đâu”.

Bản tin PL ghi thêm:

“Ông Phan Thanh Dân, Trưởng phòng GD&ĐT huyện Lộc Hà, cho biết đáp án của đề thi là:“Đâu núi đâu non đâu chẳng thấy/ Đâu sông đâu biển thấy đâu nào”. Theo ông Dân, việc ra đề trên là bình thường, không đánh đố học sinh. Đây là chương trình tiếng địa phương được đưa vào đề thi nhằm kiểm tra phần văn hóa địa phương của học sinh.”
Có cần học tiếng địa phương kiểu như thế không? Hay là nên để thì giờ học những kiến thức và kỹ năng có thể giúp các em ganh đua ở tầm mức quốc gia hay quốc tế?

Thứ Hai, 25 tháng 5, 2015

VŨ TRỤ BÍ ẨN

Cùng đi tìm lời giải thích cho các hiện tượng kì thú của vũ trụ bao la...

Vũ trụ quanh ta vô cùng rộng lớn và chứa đựng biết bao nhiêu điều bí ẩn. Bạn đã bao giờ tự hỏi tại sao bầu trời màu xanh, vũ trụ có màu đen hay sao chúng ta không nhìn thấy ngôi sao nào màu xanh lá cây... Hãy cùng đi tìm lời giải qua những nghiên cứu dưới đây.
 
1. Tại sao bầu trời có màu xanh?

Chắc hẳn trong chúng ta, ai cũng từng một lần thắc mắc tại sao bầu trời có màu xanh nhưng không phải người nào cũng đưa ra được lời giải đáp thỏa đáng. 

4 bí ẩn về vũ trụ khiến bạn
Ai cũng hiểu rằng, mặt đất được chiếu sáng bởi ánh sáng Mặt trời. Đó là ánh sáng trắng, là tổng hợp của tất cả các ánh sáng đơn sắc khác. Khi đi qua bầu khí quyển, tùy theo điều kiện thời tiết, không khí và độ ẩm, chúng ta sẽ nhìn thấy những màu sắc khác nhau của bầu trời.

4 bí ẩn về vũ trụ khiến bạn
Phần lớn thời gian trong ngày, trong năm, bầu trời có màu xanh. Nguyên nhân là bởi, khi ánh sáng trắng đi tới bầu khí quyển, ánh sáng đỏ, cam, vàng, xanh lá cây có bước sóng dài nhất đi xuyên qua, ánh sáng tím có bước sóng ngắn nhất bị giữ ở bên ngoài. 

Duy chỉ có chùm sáng xanh lam là đi vào bầu khí quyển, bị lớp không khí tán xạ mạnh, phản xạ đi phản xạ lại bởi hơi nước, bụi bặm. Kết quả là chúng ta nhìn thấy bầu trời có màu xanh lam đến vậy.

4 bí ẩn về vũ trụ khiến bạn
Điều tương tự xảy ra khi hoàng hôn buông xuống. Đó là lúc lượng không khí dày hơn, tán xạ được cả ánh sáng cam, đỏ. Vì thế nên chẳng có gì lạ nếu bạn được ngắm cảnh hoàng hôn trong sắc trời đỏ ối.
 
2. Tại sao ngoài vũ trụ có màu đen ?

4 bí ẩn về vũ trụ khiến bạn
Màu đen thường gợi chúng ta nghĩ tới bóng tối, về hình ảnh một nơi không có ánh sáng. Thế nhưng, trong vũ trụ, nơi có Mặt trời và hàng vạn vì sao tinh tú chiếu sáng, không gian vẫn có màu đen.

4 bí ẩn về vũ trụ khiến bạn
Câu hỏi được trả lời nếu bạn nắm rõ quy luật về ánh sáng. Chúng ta nhìn thấy một vật nếu ánh sáng từ vật đó chiếu tới mắt ta. Chỉ có điều hình ảnh ta nhìn thấy phụ thuộc vào tương quan kích thước của vật. 

Các ngôi sao dù có khổng lồ tới mấy vẫn chỉ là tí hon so với không gian vũ trụ. Hơn nữa, khoảng cách của chúng cách quá xa nhau, hàng triệu năm ánh sáng, do vậy chúng ta nhìn thấy vũ trụ có màu đen lốm đốm những điểm sáng là chuyện hoàn toàn bình thường. 
 
3. Sao Mặt trời mới mọc bị méo đi?

4 bí ẩn về vũ trụ khiến bạn
Khoa học phát triển giúp chúng ta biết được rằng, Mặt trời hình cầu và là trung tâm của dải ngân hà. Thế nhưng nếu đã một lần ngắm bình minh mọc hay hoàng hôn buông xuống, bạn hẳn sẽ thắc mắc: Mặt trời bị méo chứ không phải có hình cầu.

4 bí ẩn về vũ trụ khiến bạn
Giống như một chiếc thìa dài nhúng vào một cốc nước khi nhìn vào có cảm giác như bị gãy, khúc xạ ánh sáng chính là câu trả lời chúng ta tìm kiếm. Ánh sáng thông thường truyền theo đường thẳng nhưng khi di chuyển từ môi trường này sang môi trường khác, nó sẽ bị “bẻ cong”. 

4 bí ẩn về vũ trụ khiến bạn
Bầu không khí của chúng ta thực chất không hề đồng nhất, tức là có sự khác biệt giữa các khu vực, phụ thuộc vào độ cao, khí hậu… Người ta thường nói, bình minh và hoàng hôn là hai thời điểm Mặt trời gần đường chân trời nhất. Đó cũng chính là vị trí có thể cảm nhận rõ nhất sự khúc xạ ánh sáng này.

4 bí ẩn về vũ trụ khiến bạn

Không khí gần mặt đất nặng hơn so với không khí trên cao. Do vậy, khi Mặt trời mọc lên hay từ từ lặn xuống, ta sẽ có cảm giác "ngôi sao" này như bị bóp méo, uốn cong vậy.
 
4. Tại sao không có ngôi sao nào màu xanh lá cây?

Nhìn lên bầu trời đêm, bạn có thể chiêm ngưỡng hàng ngàn các vì tinh tú đủ màu sắc: đỏ, vàng, cam, trắng… Song chắc chắn trong số đó không có ngôi sao nào màu xanh lá cây. Vì sao vậy nhỉ?

4 bí ẩn về vũ trụ khiến bạn

Nguyên nhân nằm ở cách mà con người cảm nhận màu sắc. Mắt người nhìn được ánh sáng có bước sóng từ xanh lam tới đỏ và ánh sáng xanh lá cây nằm trong khoảng đó. Tuy nhiên, những ngôi sao có màu xanh lá cây phát ra ánh sáng gồm nhiều bước sóng khác nhau. 

4 bí ẩn về vũ trụ khiến bạn

4 bí ẩn về vũ trụ khiến bạn
Vì vậy, tùy theo góc độ quan sát, ta sẽ thu được những màu sắc trộn lẫn khác nhau, chứ không bao giờ nhìn thấy một màu xanh lá cây đúng nghĩa. 

Trường hợp điển hình nhất, trong ánh sáng Mặt trời có rất nhiều chùm sáng xanh lá cây song màu mà mắt người cảm nhận được chỉ là màu trắng lóa mà thôi. 


-- Xin vui lòng delete nếu bạn không thích....

CAFE SAIGON XƯA

CÀ PHÊ SAIGÒN XƯA
Hồi xửa hồi xưa … có một Sàigòn người ta gọi cà phê là “cà phe”, đi uống cà phê là đi uống “cà phe” với giọng điệu rất là ngộ nghĩnh. Tiếng Tây gọi cà phê là Café, tiếng Anh là Coffee nhưng mấy xì thẩu Chợ Lớn thì gọi là “cá phé”. Vậy thì café, coffee, cà phê, cà phe hay là cá phé muốn gọi sao gọi nhưng ai cũng hiểu đó là món thức uống màu đen có hương vị thơm ngon, uống vào có thể tỉnh người nếu uống quá đậm có thể thức ba ngày không nhắm mắt…
alt

                              TRỞ VỀ THẬP KỶ 50: CÀ PHÊ VỚ

Năm một ngàn chín trăm… hồi đó người Sài gòn chưa ai biết kinh doanh với nghề bán cà phê cả. “Xếp sòng” của ngành kinh doanh…có khói nầy là do các xếnh xáng A Hoành, A Coón, chú Xường, chú Cảo…chủ các tiệm hủ tíu, bánh bao, há cảo, xíu mại. Vô bất cứ tiệm hủ tíu nào vào buổi sáng cũng có bán món cá phé, cà phê, cà phe đi kèm để khách có thể ngồi đó hàng giờ nhăm nhi bàn chuyện trên trời dưới đất.
alt

Hồi đó chẳng ai biết món cà phê phin là gì đâu? Các chú Xường, chú Cảo, A Xứng, A Hía chỉ pha độc một loại cà phê vớ. Một chiếc túi vải hình phểu được may cặp với một cọng kẻm làm vành túi và cán. Cà phê bột đổ vào túi vải (gọi là bít tất, hay vớ đều được). Vì chiếc vợt cà phê nầy hơi giống như chiếc vớ dùng để mang giày nên “dân chơi” gọi đại là cà phê vớ cho vui. Chiếc vớ chứa cà phê nầy sau đó được nhúng vào siêu nước đang sôi, lấy đũa khuấy khuấy vài dạo xong đậy nắp siêu lại rồi… “kho” độ năm mười phút mới có thể rót ra ly mang ra cho khách. Chính cái“quy trình” pha chế thủ công đầy phong cách Tàu nầy mà dân ghiền cà phê còn gọi nó là cà phê kho bởi chỉ ngon lúc mới vừa“kho nước đầu”. Nếu ai đến chậm bị kho một hồi cà phê sẽ đắng như thuốc Bắc.
alt

Có mấy khu vực có những con đường qui tụ rất nhiều tiệm cà phê hủ tíu. Ở Chợ Cũ có đường Mac Mahon (đọc là đường Mạc Má Hồng, nay là đường Nguyễn Công Trứ) có rất nhiều tiệm cà phê kho từ sáng đến khuya. Khu Verdun – Chợ Đuỗi (nay là Cách Mạng Tháng Tám) cũng đáng nể bởi cà phê cà pháo huyên náo suốt ngày.
alt

Ở bùng binh Ngã Bảy (góc Điện Biên Phủ và Lê Hồng Phong bây giờ) có một tiệm cà phê hủ tíu đỏ lửa từ 4 giờ sáng cho đến tận 12 giờ đêm. Còn nếu ai đi lạc vào khu Chợlớn còn “đã” hơn nhiều bởi giữa khuya vẫn còn có thể ngồi nhăm nhi cà phê, bánh bao, bánh tiêu, dà – chả – quải đến tận sáng hôm sau.

                                 CÀ PHÊ HỦ TÍU TÀUSách phong thủy Tàu thường khuyên không nên cất nhà ở ngã ba, ngã tư đường vì dễ bị nạn xui xẻo nhưng các chú Xường, chú Hía, A Hoành, A Koón… thì đều chọn các nơi nầy làm chổ kinh doanh. Tuy Sài gòn, Chợ lớn, Gia Định, Phú Nhuận, Đa Kao có hàng trăm tiệm cà phê, hủ tíu Tàu nhưng nhìn chung chúng đều có một “mô – típ – made in China” khá giống nhau, tức là quán nào ở phía trước cửa cũng có một xe nấu hủ tíu được làm bằng gỗ thiết kế một cách cầu kỳ. Phần trên của xe được trang trí bằng những tấm kính tráng thủy vẽ những nhân vật Quan Công, Lưu Bị, Triệu Tử Long, Trương Phi trong truyện Tam Quốc Chí khá vui mắt.
alt

Bên trong quán hoặc xếp bàn tròn hoặc vuông. Khách vừa vào trong gọi “cá phé”, song mấy tay phổ ky vẫn bưng ra một mâm nào bánh bao, xíu mại, há cảo, dà chá quải đặt trên bàn. Khách dùng hay không cũng chẳng sao “pà – con – mà!”.
alt

                         UỐNG CÀ PHÊ PHẢI BIẾT CÁCH

Như đã nói ở trên, hồi đó không có cà phê ta mà chỉ có cà phê Tàu. Vì thế uống cà phê Tàu phải có một phong cách riêng.
Cà phê được mang ra dân ‘sành điệu” hồi đó ngồi chân dưới chân trên, sau khi khuấy nhẹ cho tan đường bèn đổ ly cà phê ra cái đĩa đặt phía dưới. Chưa uống vội, khách chậm rãi mồi điếu thuốc rít vài hơi để chờ cà phê nguội.
alt

Ông Sáu “trường đua” nay đã 80 kể rằng hồi ông còn là một chú nhóc nài ngựa ở trường đua Phú Thọ ông cũng uống cà phê theo phong cách nầy, tức uống bằng đĩa chớ không uống bằng ly. Bàn tay phải nhón lấy cái đĩa đưa lên miệng và húp sì sụp:

“Uống vậy mới khoái, mới đúng kiểu của dân từng trải”, ông Sáu “trường đua” nói với vẻ tự hào. Ông còn kể cho tôi nghe chuyện ông từng ăn mảnh ở mấy tiệm hủ tíu bánh bao hồi năm sáu chục năm về trước với giọng khoái trá:

“Hồi đó tao làm nài ngựa. Hôm nào ngựa thắng độ thì nài được chủ ngựa thưởng cho bộn tiền. Hôm nào ngựa thua thì coi như đói. Không sao, 73 gần trường đua có một tiệm hủ tíu cà phê. Vào búng tay chóc chóc gọi cà phê. Cứ cho mấy thằng phổ ky mang bánh bao xíu mại ra bày trên bàn. Đợi đến khi nó mang cà phê ra rồi bỏ chạy sang bàn khác thì nhanh tay gở miến giấy phía dưới cái bánh bao ra và khoắng ngay cái nhân phía trong tọng vào miệng rồi đậy bánh lại như cũ. Thế là chỉ tốn ly cà phê vài xu mà đã có cái nhân bánh bao to đùng ngon lành trong bụng rồi”.

Theo ông Sáu “trường đua” thì các chủ tiệm cà phê hủ tíu hồi đó rất chiều khách. Sì sụp húp cà phê bằng đĩa xong muốn ngồi bao lâu cứ ngồi, hết trà cứ hô lên “xà dẵm” là có người mang ra bình trà mới, uống chừng nào chán thì đi. Khi được hỏi tại sao dân “sành điệu” lại không uống bằng ly mà lại… húp cà phê bằng đĩa, ông sáu “trường đua” lắc đầu nói không biết chỉ biết dân “sành điệu” chơi vậy mình cũng bắt chước chơi vậy thôi, vậy mới là… sành điệu!
                CÀ PHÊ PHIN HAY CÀ PHÊ ‘NỒI TRÊN CỐC”
alt

Dòng cà phê… vớ cà phê kho lững lờ trôi như thế hằng thế kỷ của thiên kỷ trước là như thế, cứ vào tiệm hủ tíu mà uống cà phê đổ ra đĩa rồi sì sụp húp thì được xem như đó là phong cách của dân chơi sành điệu.

Một người tên ông Chín “cù lủ”, một tay bạc bịp nay đã hoàn lương cho rằng dân cờ bạc, dân giang hồ hồi đó chẳng đời nào bưng ly mà uống như ngày nay. Kẻ ngồi nghiêm túc, nâng ly lên uống như uống rượu bị các đàn anh “húp” đĩa xem khinh bằng nửa con mắt, coi như hạng… “bột” lục hục thường tình không đáng kết giao.

Nhưng rồi cái quan điểm húp cà phê trên đĩa mới… “sang” cũng đến lúc phải lụi tàn, vì bị chê là kiểu uống bẩn, uống thô vụng khi trào lưu cái phin“filtre” bắt đầu xuất hiện và đã làm biến dạng cái kiểu uống cà phê trong tiệm hủ tíu.
Vào thập niên 60 Nhà hàng Kim Sơn (nằm trên góc Lê Lợi – nguyễn Trung Trực) mở cú đột phá ngoạn mục bằng cách bày bàn ghế ra hàng hiên dành cho các văn nghệ sĩ trẻ chiều chiều ra đó bàn chuyện văn chương và… rửa con mắt. Hồi đó cà phê Kim Sơn chỉ có một đồng một cốc bằng giá vé xe buýt dành cho học sinh. Mặc dù chủ quán Kim Sơn lúc đó vẫn là người Hoa nhưng đã tiếp thu phong cách cà phê hè phố của dân Paris (Pháp).
alt

Theo lý thuyết, những giờ uống cà phê là những giờ thư giản hoàn toàn, vừa nhăm nhi từng ngụm nhỏ cà phê dặc sánh vừa ngắm quang cảnh sôi động đông vui của đường phố. Thuở ấy con đường Lê Lợi vẫn còn những hàng me. Vào những ngày me thay lá, dưới ánh nắng chiều phớt nhẹ, lá me vàng khô rơi tản mản như hoa “com – phét – ti” lấp lánh làm cho đường phố trở nên… “mộng mị” và thơ…
alt


Kim Sơn biết tận dụng ưu thế chiếm lĩnh một góc ngã tư, tầm nhìn rộng bao quát để khai thác dịch vụ cà phê hè phố. Cái phin đã trở nên quen thuộc, cao cấp hơn cái vợt cái vớ của cà phê kho trên cái siêu đất “phản cảm” xưa.

Thời điểm nầy những nhà văn, nhà báo, các nhà doanh nghiệp tên tuổi cũng có những quán cà phê sang trọng xứng tầm với địa vị của họ. Những La Pagode, Brodard, Givral, Continental là nơi gặp gỡ, giao lưu của giới thượng lưu Sàigòn.
                                           CÀ PHÊ TÂY
Cà phê La Pagode khách không ngồi ghế sắt ghế gỗ mà ngồi trên những salon bọc da để phóng tầm mắt nhìn ra con đường Catinat (nay là Đồng khởi) con đường đẹp và sang nhất của Sàigòn. Cách La Pagode độ trăm mét Nhà hàng Continental cũng mở một không gian cà phê sang trọng đúng phong cách “Phăng – se”. Đối diện Continental là tiệm cà phê Givral nơi nổi tiếng với những món bánh ngọt tuyệt hảo. Tiệm tràn ngập ánh sáng bởi những khung cửa kính nhìn ra Nhà Hát Lớn (nay là Nhà Hát TP) với một bầu trời khoáng đãng. Những nhà báo, văn nghệ sĩ thường ghé đây uống cà phê trước khi tỏa đi khắp nơi cho công việc riêng của họ.
alt

alt

Còn một quán cà phê với một phong cách phương Tây như bàn ghế, trang trí nội thất sang trọng cũng nằm trên con đường nầy là quán cà phê Brodard. Với một phong cách cũng gần giống với La Pagode, không gian Brodard yên tĩnh, ánh sáng thật nhạt để khách có thể thả hồn êm ả bên tách cà phê nóng hổi quyện hương thơm.
alt

Có thể nói từ giai đoạn nầy người Việt Nam ở Sàigòn “thức tỉnh” trước thị trường buôn bán cà phê mà từ lâu họ đã bỏ quên và đã để cho các chú Hoành, chú Koón, chú Xường… tự do khai thác.

Khi qua tay người Việt quán cà phê không còn luộm thuộm những cái ‘đuôi” mì, hủ tíu, hoành thánh, xíu mại, há cảo, bánh bao… nữa mà nó thuần túy chỉ có cà phê nhưng được chăm chút một cách tỉ mỉ hơn, biết tạo ra một không gian tao nhã hơn, thu hút hơn…
                               CAFÉTÉRIA CA NHẠC
Để gần gủi hơn, thu hút khách hơn và cũng mang tính giải trí hơn, một số nơi đã ổ chức hình thức phòng trà ca nhạc theo dạng Cafétéria.
Cafétéria rộng thoáng hơn những “Tháp ngà” La Pagode, Brodard, Givral, Continental… nơi đây không phải chổ để trầm tư, bàn luận chuyện đời mà hoàn toàn là chổ vui chơi giải trí.
alt

Trên đường Bùi Viện đầu những năm 60 mọc ra một cái quán với tên là Phòng trà Anh Vũ. Tuy là phòng trà nhưng có thiết kế một sân khấu nhỏ vừa cho một ban nhạc bỏ túi đệm đàn cho những ca sĩ tăm tiếng được mời đến trình diễn như Bạch Yến, Mai Hương, Duy Trác, Cao Thái… Lúc đó phòng trà Anh Vũ là điểm hẹn của nhiều người dân Sàigòn cũng như những văn nghệ sĩ sinh sống tại đây. Con đường chật hẹp Bùi Viện bổng đêm đêm sáng lên rực rở ánh đèn Anh Vũ, người xe tấp nập đông vui.

Một Cafétéria khác theo cách của Anh Vũ cũng đã mọc lên bên cạnh rạp Ciné Việt Long (trên đường Cao Thắng) với tên Phòng trà Đức Quỳnh. Ca sĩ kiêm nhạc sĩ tóc dài Đức Quỳnh là chủ nhân của cái Cafétéria nầy. Đức Quỳnh với cây Piano và giọng ca trầm ấm của ông và những ca sĩ Minh Hiếu – Thanh Thúy, Phương Dung đã thu hút một số đông người yêu nhạc đêm đêm đến đây vừa giải khát vừa giải trí một cách tao nhã.
Rồi tiếp theo là cà phê Cafétéria Jo Marcel, trên đường Hai Bà Trưng, Đêm Màu Hồng trên đường Tự Do (nay là đường Đồng Khởi) thi nhau mọc lên đẩy “Nền văn hóa ẩm thực” cà phê lên một tầm cao hơn, tức vừa uống cà phê vừa được thưởng thức những ca khúc do các ca sĩ, nhạc sĩ có tiếng trình bày.
alt

Một Phòng trà ca nhạc khác cũng khó quên chính là phòng trà Bồng Lai nằm trên sân thượng của Nhà hàng Kim Sơn mở cửa hàng đêm từ 9 giờ tối. Ở đây khách thường xuyên được nghe giọng ca vàng đương thời, ấy là ca sĩ Anh Tuyết với bài hát “Anh đèn Màu”.

Cũng như ca sĩ Cao Thái nổi tiếng với bài “Mexico”, ca sĩ Anh Tuyết mỗi lần trình diển “Anh đèn Màu” là bà hát với những dòng nước mắt. Nội dung ca khúc là nói về tâm trạng của người nghệ sĩ là ca hát để người mua vui để rồi khi ánh đèn màu tắt người nghệ sĩ lại một mình giữa cô đơn… Có lẽ do cái nội dung u buồn ấy đụng chạm vào nỗi lòng của bà nên bà rất ít khi chịu hát nhạc phẩm ấy. Nhưng hầu như đêm nào cũng có người yêu cầu, trừ những người thân quen bắt buộc phải đáp ứng, còn thì Anh Tuyết xin lỗi từ chối khéo.
                   LẠI QUAY VỀ CÀ PHÊ VỚ ĐÔNG VUINhững ngày đầu sau khi thanh bình, Sàigòn lại rộ lên phong trào cà phê hè phố. Những quán cốc che tạm tấm bạt bên lề đường với những chiếc ghế gỗ lùn làm chổ tụ họp của các thanh niên vui đón những ngày hạnh phúc mới.
Vòng quanh Hồ con Rùa, xuống đến Phạm Ngọc Thạch, quẹo qua Nguyễn Đình Chiểu có hàng mấy chục “túp lều” cà phê như thế mọc lên san sát bên nhau.
Trên đường Trần Quốc Thảo gần Hội Văn Nghệ TP, một số anh em văn nghệ cũng mở quán cà phê cóc bên vệ đường để anh em hội tụ, gặp gở sau khi chiến tranh đã kết thúc.
Chỉ là cà phê hè phố nhưng đông vui, uống một cốc cà phê siêu, cà phê vớ nhưng thoải mài ngồi cả ngày cũng chẳng ai rầy rà. Sau khi hết tiếng súng nổ, hết hỏa châu đầy trời, hết bắt lính, thanh niên, sinh viên Sài gòn vui vẻ chào đón những ngày cách mạng đông vui ngoài phố. Và các ‘quán cốc liêu xiêu một câu thơ” bên các vĩa hè là chổ dừng chân để… “tám” đủ thứ chuyện trên trời dưới đất.
alt

Chỉ có ai ở tuổi thanh niên vào thời điểm lịch sử có một không hai đó mới thấy được cái thú ngồi quán cà phê bụi lụp xụp mà hầu như đường nào cũng có. Có người còn có thuốc Ruby, Con Mèo để phì phàbên ly cà phê vớ nhưng để… phiêu bồng hơn một số lớn thanh niên chơi… “bốc – lăn – se” tức thuốc vấn. Anh nào cũng thủ sẵn một bọc trong túi xách để sẳn sàng bày ra cho bạn bè tha hồ vừa bốc vừa lăn vừa se vừa liếm vừa dán rồi phì phèo nhả khói

Cà phê quán cóc (nhảy nay chổ nầy mai chổ khác như cóc nhảy ấy mà)thời ấy được coi như thời huy hoàng lãng mạn nhất của nền… văn hóa ẩm thực cà phê cóc Sàigòn. Ban ngày đã rộn ràng như thế đến đêm bên những ngọn đèn dầu lù mù loanh quanh những con đường trong thành phố cũng có những quán cóc để dân mê cà phê, mê hòa bình được tận hưởng những giờ phút, sảng khoái, thanh bình, yên ả nhất của đời mình.
                SÀIGÒN DĨ VÃNG VÀ SÀIGÒN BOLSA
Sàigòn một thuở là Hòn ngọc Viễn Đông, một Paris lấp lánh khắp cõi Châu Á, tới hôm nay, đã mang tên khác, nhưng người ta vẫn quen gọi tên cũ chính danh là Sàigòn. Một thành phố mãi mãi vẫn mang tên là Sàigòn. Sàigòn của muôn đời. Sàigòn trong trái tim người đang sống ở thành phố đó hay lưu lạc khắp năm châu thế giới..
Người Sàigòn không nhất thiết phải sinh ra tại đó, có bao nhiêu đời Ông Bà Cha Mẹ từng lập nghiệp lâu năm bền vững. Một người, bất cứ ai, cũng có thể nhận chính mình là dân Sàigòn, dù chỉ ở đây một ngày, một tuần hay một tháng, một năm. Chỉ sống một ngày ở Sàigòn, nhưng yêu Sàigòn mãi mãi, và mang Sàigòn ở trong tim, như một phần của thân xác, linh hồn mình. Chỉ như vậy thôi, người ta có thể ngẩng cao đầu, tự hào vỗ ngực tuyên xưng, tôi chính là dân Sài gòn.
Tóm lại, Sàigòn là của tất cả mọi người suốt giải giang sơn, từ Bắc qua Trung tới Nam. Sàigòn như một hiền mẫu, dang vòng tay ôm thương yêu quảng đại tới con người tứ xứ, không phân biệt Bắc, Trung, Nam và ngay cả người ngoại quốc nữa.
Một người Pháp sinh ra ở Paris, bỗng dưng một hôm tuyên bố, từ nay tôi không còn là một Parisien, cư dân ở Paris nữa. Tôi là người Sàigòn và sẽ ở lại đây cho tới cuối đời. Thế là dân Sàigòn bèn gọi chàng Tây là anh Hai, hoặc anh Tư gì đó. Tinh thần người Sàigòn là như vậy đó, thiệt là cởi mở và phóng khoáng.
Một nhạc sỹ sáng tác nhạc gửi: “Sàigòn ơi! Ta hứa rằng ta sẽ trở về” . Rồi chàng cũng đã trở về thật, sau hơn chục năm xa cách. Nhưng chàng khám phá ra mình thực sự mất Sàigòn trong thực tại. Thế nên, nếu có sự trở lại, thì chỉ còn một hành hương về Sàigòn trong quá khứ với ngọc ngà dĩ vãng..
Hãy cùng trở về Sàigòn từ một ký ức xa tắp mù khơi. Sàigòn của những thập niên 1950 từ hơn nửa thế kỷ trước. Sàigòn với các hộp đêm, sòng bài Đại Thế Giới, Chợ Lớn, một Las Vegas thu nhỏ. Tại đây có đủ loại sòng bài và cách chơi khác nhau, lại có chỗ giải trí như xe nhỏ chạy bằng điện húc nhau đùa rỡn, hiện nay Las Vegas vẫn còn trò chơi này. Khu văn nghệ khác như phòng trà vũ trường. Con đường Trần Hưng Đạo Galliéni, Đồng Khánh chạy dài từ Sàigòn tới Chợ Lớn dài vun vút dẫn khách tới sòng bài, lưu thông hàng ngàn chiếc xe hơi nối đuôi nhau, đèn pha sáng chói, chẳng khác gì đại lộ Champs Elyseé tại Paris.
alt

Đường Richaud Phan Đình Phùng quả thật văn nghệ với quán cà phê Gió Nam nỗi tiếng vì cô hàng café tuyệt sắc giai nhân. Nàng có nước da trắng xanh liêu trai với mái tóc thề ngây thơ nữ sinh. Nhân vật đã đi vào truyện Duyên Anh, qua bao chàng trai say đắm, tranh đua nàng, từ trí thức đến du đãng yên hùng. Cũng tại đường Phan Đình Phùng với quán phở Con Gà sống thiến cùng hai kiều nữ con chủ quán, nổi danh tài sắc. Yến Vỹ cùng chị, cả hai để mái tóc bồng rối như minh tinh Brigitte Bardot. Bao thực khách đến chẳng phải phở ngon, nhưng vì Yến Vỹ đẹp lại hát hay. Thì ra ngoài quán café, nhà hàng phở giai nhân cũng khiến một chàng Cử Văn Khoa phải vào nhà thương điên vì tình si. Phan Đình Phùng còn thêm café quán Luật Khoa và cơm gà Xing Xing, với những giai nhân lai Pháp, càng làm thêm Sàigòn có một chút Paris.

Sàigòn by night đã là những phòng trà ca nhạc và vũ trường khiến màn đêm Thành Đô trở nên lung linh ảo huyền, như một ngàn lẻ đêm huyền thoại. Nổi bật nhất từ cuối thập niên 50 là phòng trà ca nhạc Anh Vũ. Nơi đây khởi đi cho nhiều danh ca sau này. Thanh Thúy ở tuổi mượt mà thanh xuân đôi tám đã hát từ Anh Vũ, làm mê say bao tao nhân mặc khách. Người ta mê Thanh Thúy vì có lối trình diễn độc đáo bên giọng ca trầm buồn. Thanh Thúy vừa hát vừa đưa tay vuốt làn tóc buông rơi, sau đó gây chú ý là tự vuốt đôi chân ngọc tuổi dậy thì, có lúc nàng lại vưốt cây micro nữa, khiến các chàng trai sởn da gà vì sốt nóng lạnh. Ban CBC thuở Anh Vũ đã là ban nhạc kích động nhỏ nhất thế giới, với tuổi khoảng sáu, bảy mà thôi. Thảm kịch cũng xảy ra cho phòng trà Kim Điệp Sàigòn, khi một chàng Tây lai bị giết. vì dám cặp kè với người đẹp Tuyết Không Quân. Tuyết là một giai nhân nổi tiếng sát phu qua hai đời chồng bị tử nạn trong chiến tranh. Phòng trà Kim Điệp sau vụ ấu đả vì ghen tuông. bị đóng cửa để trở thành Nhà sách.

Quán café trà thất đẹp nhất Sàigòn phải kể là Quán Gió, sau thành “Hầm Gió”, thiết trí sâu dưới đất, như một hầm rượu bên Âu châu. Người đẹp ngồi cash, bên một thùng rượu làm thành cái bàn khá ngoạn mục. Ca sỹ Thanh Lan thường có buổi trình diễn tại đây
Chính những phòng trà đêm Sàigòn đã đưa nhạc phản chiến của Trịnh Công Sơn lên đỉnh cao. Nhiều ca khúc phản chiến cấm hát ở Đài phát thanh nhưng tại phòng trà thì vẫn được trình diễn tự do.
alt

Vũ trường, phòng trà Sàigòn còn ghi lại một thiên tình sử đẫm lệ, khi nữ ca sỹ Diệu Anh kiều diễm hát hay, đã tự tử vì . . . bị một nam ca sỹ bỏ rơi. Chàng trai bạc tình sau đó vì buồn và hối hận đã bỏ hát vài năm. Đêm Sàigòn trà thất vũ trường còn ghi đậm cây si thường xuyên Mai Thảo và Hồng Dương, để viết thêm những tình sử lâm ly với hai nữ danh ca khác.

Đêm Sàigòn bạc vàng, bạc triệu với Lệ Thu và Khánh Ly, những tiếng hát vàng ròng cả nghĩa trắng lẫn nghĩa đen, vì lương tháng hai nữ danh ca này lên tới một triệu. Trong khi đó, lương một Đốc sự, Phó Quận trưởng tới năm 1975 chỉ có 33 ngàn đồng một tháng.
Vũ trường thơ mộng nhất Sàigòn là Mỹ Phụng ngay tại bến Bạch Đằng. Thuở đó cuối thập niên 50 đầu 60, người ta thích đi Mỹ Phụng vì ban đêm có gió sông Sàigòn mát dịu lại thêm nữ danh ca Lệ Thanh. Nàng chuyên hát những tinh khúc ướt át, trong điệu slow tắt đèn, mờ ảo như “Dang dở ” “Nỗi Lòng”. Tiếng hát mê đắm Lệ Thanh đã thu hồn một Bác Sỹ trở thành phu quân của nàng.
Đêm Sàigòn ngọc ngà dĩ vãng khiến người ta khó quên được vì những dạ vũ Bal Famille có khi kéo dài từ đêm suốt sáng. Ai có ngờ cô bé Mai đen 16 tuổi, thường đi với bé Phú, sau này lại trở thành ca sỹ Khánh Ly nổi danh cho tới nay. Phú mệnh danh là Phú chuột, trắng trẻo, mũm mĩm xinh như thỏ con, thường nhảy cùng Mai với đám bạn trai. Mai nhảy có khi bỏ cả giày cao gót giữa đêm vui đã gần rạng sáng.
Thuở ấy, người đi dạ vũ phải trầm trồ khen ngợi tài nhảy của Tony Khánh, thường nhảy cặp với vợ. Mỗi lần Khánh cùng phu nhân ra sàn nhảy, mọi người đều ngừng khiêu vũ để thưởng thức tài nghệ bậc sư biểu diễn. Sau đó là pháo tay nổ ròn như ngày Tết.
alt

Hòn ngọc Viễn Đông Sàigòn từ thập niên 50 nay đã trên nửa thế kỷ, Sàigòn đã đổi tên. Người Sài Gòn đã bay xa, lập thành bao nhiêu Little Sàigòn rải rác khắp hải ngoại . Và dân Sàigòn năm xưa, những chàng trai hào hoa phong nhã, bao giai nhân ca sỹ lừng danh, nay đã thất thập cổ lai hy, hay gần mấp mé tuổi hạc. Thế nhưng trái tim chằng bao giờ già. Bởi vậy nói như Thi sỹ Thanh Tâm Tuyền ta gọi tên ta, Sàigòn cho đỡ nhớ. Hỡi những Đêm Mầu Hồng, Queen Bee, Arc En Ciel, Mỹ Phụng, Tự Do . . . Những đêm vui thắp sáng kỷ niệm, những ngày xuân mãi mãi xanh tươi, để làm thành một Thủ Đô Sàigòn bất tử, ta yêu lắm và yêu mãi mãi. Sàigòn trong lời nhạc của Ngô Thụy Miên, thì dù Em của ta có đi khắp thế giới Paris, Vienne, cũng chẳng thể tìm đâu đẹp hơn Sàigòn của ta ngày hôm qua dĩ vãng cũng như Sàigòn mai sau.
Biên soạn từ lophocvuive onlinr
Ảnh sưu tầm
Tác giả: khuyết danh