Về bản nhạc Thiền
Chân Nguyên
***
Cách
đây không lâu, một người bạn gửi cho tôi một bản nhạc, anh nói là một
bản nhạc thiền mà anh rất thích. Có lẽ anh biết tôi là một Phật tử và
cũng thích thưởng thức âm nhạc nên gửi cho tôi chăng? Anh bảo đây là một
bài nhạc nhiều thiền vị, lời lẽ nhiều chỗ rất khó hiểu, nên anh muốn
tôi nghe để rồi thảo luận với tôi sau.
Động
lòng hiếu kỳ, tôi cũng mở ra nghe thì thấy quả thật đây là một bản nhạc
có nhạc điệu rất hay, được một nữ ca sĩ nổi danh trình bày, nhưng lời
nhạc không đơn giản với những thuật ngữ Phật học không dễ lãnh hội ngay
được.
Ngay cái đầu đề của bản nhạc cũng không tầm thường chút nào. Đó là bài “Chân nguyên” của nhạc sĩ Trực Hội, do nữ ca sĩ Hà Thanh hát.
Chân nguyên là gì?
Tôi rất bỡ ngỡ, lúng túng với hai chữ “Chân Nguyên”. Tìm đâu cũng không thấy nơi nào cho một định nghĩa rõ rệt thế nào là “Chân nguyên”, “Chân nguyên” là gì?
- Vào mạng (internet) chỉ thấy “Chân Nguyên” là tên của một vị thiền sư, thế kỷ thứ 17, thuộc dòng Lâm Tế, tỉnh Hải Dương(1).
- Trong Phật học từ điển của cụ Đoàn Trung Còn(2), tôi chỉ thấy có chữ “Chân” mà thôi. Sau đó là chữ “Chẩn”.
Theo Phật học từ điển: “Chân”
là Thật, tức là chân thật, thành thật, lành lẽ tự nhiên, vốn là tốt
đẹp. Cũng đọc là “Chơn” (xem chữ Chơn). Đối nghĩa tự là: giả, hư, vọng.
Đồng nghĩa tự là thật, thành, như như.
Khi tôi xem đến chữ “Chơn”, thì chữ “Chơn”, đứng một mình (đơn), cũng được định nghĩa y như chữ “Chân” .
Sau
chữ “Chơn” có rất nhiều chữ kép: từ “Chơn-đế’, “Chơn-giác”, “Chơn như”…
đến “Chơn-tông”, “Chơn-trí”, “Chơn-tử”, “Chơn vọng”, và sau cùng là
“Chơn vô lậu trí”. Không có chữ kép “Chân nguyên” hay “Chơn nguyên”.
Tôi tìm chữ “Nguyên” trong Phật học từ điển thì cũng không thấy, mà chỉ có chữ “Nguyện” (có dấu nặng).
Nhưng
“Nguyên” thì hầu như tất cả mọi người đều hiểu là: chưa thay đổi (còn
nguyên, nguyên văn), y như ban đầu (nguyên si), ban đầu (nguyên bản,
nguyên liệu, nguyên sơ), căn bản (nguyên do, nguyên nhân, nguyên tắc).
Như vậy, tôi hiểu ra “Chân nguyên” có nghĩa là “Lẽ thật tự nhiên ban đầu…”
Nghe toàn bộ bản nhạc Chân nguyên,
tác giả dường như muốn nhắc nhở mọi người tu Phật phải nhớ trở về với
cái “Tâm thanh tịnh” thành tựu từ sự thấu suốt và sống với Lẽ thật tự nhiên.
Bốn câu đầu của bài Chân nguyên
Bài hát Chân nguyên khởi đầu bằng 4 câu như sau:
Chân nguyên! Tiếng ấy quen thân từ thuở hồng hoang.
Chân nguyên! Bóng dáng song sinh từ cõi địa đàng.
Chân nguyên! Chẳng cách không gian và chẳng thời gian.
Chân nguyên! Ngươi vẫn trung trinh chờ ta trở về.
Bốn câu này có mấy từ ngữ - thuở hồng hoang, cõi địa đàng, không gian và thời gian - liên quan đến vũ trụ quan của Tây phương và Đông phương.
Vũ
trụ quan của nền văn minh Tây phương có căn bản là một tôn giáo độc
thần cho rằng thực tại tối hậu là Thượng đế (với nhiều tên khác nhau như
Chúa Trời, Thiên Chúa, Jehovah, Allah…).
Thượng đế của người Tây phương được hiểu là:
a. Một vị Thần có tính cách nhân hình, có hình dáng và cá tính giống như một con người.
b.
Một vị Thần sáng tạo ra vũ trụ và tất cả các sinh vật, kể cả con người,
trong 7 ngày. Đúng hơn là trong 6 ngày, vì ngày thứ 7 ngài nghỉ không
làm việc. Đó là ngày Chúa (Chủ) Nhật.
Thuở hồng hoang là lúc Thượng đế chưa sáng tạo ra vũ trụ và các sinh vật.
Cõi Địa đàng hay là vườn Địa đàng là nơi có hai con người đầu tiên - một nam tên là Adam, một nữ tên là Eva, do Thượng đế tạo ra - sinh sống tại đó.
c.
Thượng đế với tất cả vũ trụ và mọi sinh vật, con người, đều hoàn toàn
cách biệt. Thượng đế là siêu việt, vượt trên tất cả mọi thứ ngài đã sáng
tạo ra.
d.
Thượng đế cũng đã phán rằng ngài sẽ hủy diệt khỏi mặt đất tất cả những
gì ngài đã sáng tạo ra, từ con người đến chim muông, cầm thú vì ngài
không hài lòng với những loài ngài đã tạo dựng ra.
e. Ngày ấy, khi xảy ra, gọi là Ngày phán xét cuối cùng.
Trong Ngày phán xét cuối cùng, chỉ có một số người được Thượng đế chọn
lựa mới được ngài cứu vớt đưa lên Thiên đàng để được sống đời đời. Những
người khác sẽ bị ngài hủy diệt đưa xuống Địa ngục.
Văn minh Đông phương đã có một vũ trụ quan khác. Theo vũ trụ quan Phật giáo:
a.
Không có một vị Thần nhân hình nào đã sáng tạo ra vũ trụ, mọi sinh vật,
kể cả con người, làm chủ và ban ơn giáng họa cho con người. Con người
làm chủ lấy chính mình.
b. Vũ trụ vô thủy vô chung, không có bắt đầu, cũng không có chấm dứt. Thực tại ban đầu cũng chính là thực tại tối hậu.
c. Thực tại có mặt khắp tất cả, không riêng ở một chỗ nào, lúc nào.
d. Thực tại siêu việt tất cả không gian và thời gian mà đồng thời cũng hiện hữu trong không gian và thời gian.
e. Toàn thể thế giới, vũ trụ là một, chân thực và bình đẳng. Vạn vật đồng nhất thể.
Tâm đã giác ngộ - tác giả bản nhạc gọi là Chân nguyên - hiện hữu, bao trùm khắp không gian và thời gian (Chân nguyên! chẳng cách không gian và chẳng thời gian) là cái thực tại ban đầu, thực tại tối hậu (Chân nguyên! từ thuở hồng hoang, từ cõi địa đàng).
Những câu sau trong bản nhạc
Mải theo hoa đóm hư không
Chìm trong biển tối mênh mông
Từ ấy ta quên đường về.
Mải mê trong chốn trần lao
Tìm trong thinh sắc xôn xao
Từ ấy ta quên đường về.
Lời
nhạc nói lên là con người, mặc dầu ngay thuở ban đầu, khi mới đầu thai
vào bụng mẹ, để lại bắt đầu một chu kỳ mới của một kiếp người, với tất
cả những chủng tử thiện ác, tốt xấu, trung tính (không tốt không xấu)
của A lại da thức, là cái Vọng tâm hay cái Tâm chúng sinh mê lầm (chưa giác ngộ) của mình. Khi sống ở cõi trần này (chốn trần lao) con người, vì vô minh (biển tối mênh mông), không biết mình chỉ là ngũ uẩn kết hợp lại. Khi năm uẩn hoạt động (thinh sắc xôn xao) lại lầm chấp nó là Ta, hay là cái
Ngã, từ đó tạo nghiệp (hoa đóm hư không).
Bởi vậy, vì vô minh, con người đã không tìm thấy cái tâm thanh tịnh ban đầu - đã quên mất đường về.
Những đoạn còn lại của bài nhạc
Lắng nghe tiếng chuông chùa
Tiếng chuông chùa vang vọng từ xa.
Sớm khuya như dục lòng ta,
Trở về nơi quê nhà.
Cuộc đời như khói như sương.
Mà người sao mãi vấn nương.
Mê lầm nên đau thương.
Trầm luân mãi.
Lối đi về đuốc tuệ thường soi.
Tiếng từ âm mãi thời vang.
Đường đi trải ánh nắng vàng.
Lời nhạc muốn nói con người muốn thoát khỏi sinh tử luân hồi (trầm luân mãi, cuộc đời như khói như sương) thì hãy tỉnh giác (đuốc tuệ thường soi), trở về với tâm thanh tịnh (trở về nơi quê nhà)
Trở về an trú Chân nguyên.
Cuộc trần thôi hết đảo điên.
Tâm thường như hư không.
Chân nguyên.
Con người hãy trở về với cái Tâm Không chân thật của mình (trở về an trú Chân nguyên). Kinh xưa(3) đã
kể: “Bồ tát Quán Tự Tại khi vào sâu trong Thiền định Bát nhã Ba la mật
đa đã thấy ngũ uẩn (sắc, thọ, tưởng, hành, thức) đều là Không cho nên
không còn khổ đau”. Tâm thanh tịnh, nói cho cùng, theo Thiền tông, áp
dụng lý Bát nhã, chính là tâm Không (Không = không thực) hay hư không: tâm thường như hư không, Chân nguyên.
Đến đây xin mời quý bạn nghe bản nhạc Chân nguyên của nhạc sĩ Trực Hội do nữ ca sĩ Hà Thanh trình bày.
***
Tôi
đã mạo muội viết ra mấy lời giải thích, theo lời yêu cầu của người bạn,
lời nhạc trong bản nhạc “Chân nguyên” của nhạc sĩ Trực Hội. Xin tác giả
Trực Hội vui lòng lượng thứ cho sự đường đột này. Tôi cũng muốn xin tác
giả Trực Hội, cùng tất cả những vị thiện tri thức, khi đọc bài này, có
thấy chi sai lầm, thiếu sót, hãy vui lòng chỉ bảo cho. Đa tạ.
---------------------
(1) Thiền
Sư CHÂN NGUYÊN pháp danh TUỆ ĐĂNG (1647 - 1726, đời thứ 36, tông Lâm
Tế). Sư họ Nguyễn, tên Nghiêm, tên chữ là Đình Lân, mẹ họ Phạm, quê ở
làng Tiền Liệt, huyện Thanh Hà, tỉnh Hải Dương. Một hôm, mẹ Sư nằm mộng
thấy cụ già cho một hoa sen, sực tỉnh dậy, từ đây biết có mang. Năm Đinh
Hợi (1647), tháng 9 ngày 11 giờ ngọ, mẹ sinh ra Sư. Lớn lên theo học
với cậu là ông Giám Sinh. Sư rất thông minh, hạ bút là thành văn. Năm 16
tuổi, Sư đọc quyển Tam Tổ Thực Lục, đến Tổ thứ ba là Huyền Quang liền
tỉnh ngộ nói: “Cổ nhân ngày xưa dọc ngang lừng lẫy mà còn chán sự công
danh, huống ta là một chú học
trò”. Sư liền phát nguyện đi tu.
Năm 19 tuổi, Sư lên chùa Hoa Yên, vào yết kiến Thiền sư Tuệ Nguyệt (Chân Trú).
Thiền sư Tuệ Nguyệt hỏi: - Ngươi ở đâu đến đây ?
Sư thưa: - Vốn không đi lại.
Tuệ
Nguyệt biết Sư là pháp khí sau này, bèn thế phát xuất gia cho pháp danh
là Tuệ Đăng. Sau không bao lâu Tuệ Nguyệt tịch. Sư cùng bạn đồng liêu
là Như Niệm phát nguyện tu hạnh đầu đà, đi du phương để tham vấn Phật
pháp. Thời gian sau, Như Niệm đổi ý trở về trụ trì chùa Cô Tiên. Sư đi
lên chùa Vĩnh Phúc ở núi Côn Cương tham vấn Thiền sư Minh Lương là đệ tử
của Chuyết Chuyết.
Sư hỏi:
- “Bao năm dồn chứa ngọc trong đãy, hôm nay tận mặt thấy thế nào” là sao ?
Thiền sư Minh Lương đưa mắt nhìn thẳng vào Sư, Sư nhìn lại, liền cảm ngộ, sụp xuống lạy. Minh Lương bảo:
- Dòng thiền Lâm Tế trao cho ông, ông nên kế thừa làm thạnh ở đời.
Minh Lương đặt cho Sư pháp hiệu là Chân Nguyên (Bài viết trong Thiền viện Thường Chiếu - Bà Rịa Vũng Tàu)
(2) Đoàn Trung Còn là cư sĩ, nhà Phật học, quê xã Thắng Nhì, thị xã Vũng Tàu, tỉnh Bà Rịa.
Xuất
thân trong một gia đình có truyền thống Nho học và Phật học, thuở nhỏ
học ở Vũng Tàu, Sài Gòn. Ông thông thạo tiếng Pháp, tự học Hán văn và
trở thành một người có căn bản Hán học, rồi lập nghiệp ở Sài Gòn, cả đời
chuyên tâm nghiên cứu, dịch kinh sách Phật giáo.
Năm
1932, ông lập Phật học tòng thơ, xuất bản được nhiều kinh Phật và các
sách có liên hệ đến Phật giáo, và Trí Đức tòng thơ xuất bản các sách Nho
học.
Các
tác phẩm Phật học của ông được biên soạn, dịch thuật thường căn cứ trên
những thư tịch Phật giáo Tây phương. Sách của ông được lưu hành rộng
khắp cả 3 miền đất nước và có số lượng khá cao so với các tác giả, dịch
giả khác.
Năm
1955, ông cùng các sư thuộc phái Lục Hòa tăng thành lập một tông phái
Phật giáo mới tại Việt Nam, gọi là Tinh độ tông Việt Nam, có cơ sở rải
rác ở miền Nam, trụ sở tại chùa Giác Hải ở Phú Lâm, Chợ Lớn, sau dời về
chùa Liên Tông đường Đề Thám, Sài Gòn, nay thuộc quận 1, TP.HCM.
Ngoài ra, ông còn dịch cuốn The Light of Asia của Sir Edwin Arnold ra thơ lục bát với nhan đề Ánh sáng Á châu, viết về cuộc đời Đức Phật Thích Ca.
Đoàn Trung Còn là một cư sĩ, học giả Phật giáo có công thuyết giảng giáo lý đạo Phật với các tác phẩm Phật học bằng tiếng Việt.
(3) Bát
nhã Ba la mật đa tâm kinh - Phần chánh văn Hán tự: “Quán Tự Tại Bồ tát,
hành thâm Bát nhã ba la mật đa thời, chiếu kiến ngũ uẩn giai không, độ
nhất thiết khổ ách. Xá Lợi Tử! Sắc bất dị Không. Không bất dị Sắc. Sắc
tức thị Không. Không tức thị Sắc. Thọ, Tưởng, Hành, Thức, diệc phục như
thị…”.
Không có nhận xét nào:
Đăng nhận xét