Chủ Nhật, 29 tháng 1, 2017

TẾT TA

Tết Ta, không phải Tết Tàu


CẬN THẬN - KHÔNG NÊN BỊ THẰNG TÀU ĐỒNG HOÁ TỪ TƯ TƯỞNG ĐẾN VĂN HOÁ ,
 NHÂN BẢN

chuc xuan 2


Xin nhớ rằng, Tết âm lịch có từ dân tộc Việt rất là lâu rồi, từ hơn bốn ngàn năm trước… sau mấy anh Tàu mới học theo Việt Nam để ăn Tết và biến thành Tết Tàu.
Tết ta có từ thời vua Hùng Vương, sử dân tộc đã nói như thế, từ chuyện kể lưu giữ từ đời này sang đời kia (Bánh dầy, bánh chưng).
Tới khi quân Tàu chiếm Việt Nam, một số phong tục lại từ Phương Bắc nhập vào VN. Rồi nhiều người cứ tưởng đây là Tết Tàu .
Theo Tự Điển Bách Khoa Mở Wikipedia, Tết ghi như sau.
Tết Nguyên Đán (hay còn gọi là Tết Cả, Tết Ta, Tết Âm lịch, Tết Cổ truyền hay chỉ đơn giản còn gọi là Tết) là dịp lễ quan trọng nhất của Việt Nam… Trước ngày Tết, thường có những ngày khác để sửa soạn như “Tết Táo Quân” (23 tháng chạp âm lịch) và “Tất Niên” (29 hoặc 30 tháng chạp âm lịch).
Vì Tết tính theo Âm lịch là lịch theo chu kỳ vận hành của Mặt Trăng nên Tết Nguyên Đán của Việt Nam muộn hơn Tết Dương lịch (còn gọi nôm na là Tết Tây). Do quy luật 3 năm nhuận một tháng của Âm lịch nên ngày đầu năm của dịp Tết Nguyên đán không bao giờ trước ngày 21 tháng 1 Dương lịch và sau ngày 19 tháng 2 Dương lịch mà thường rơi vào khoảng cuối tháng 1 đến giữa tháng 2 Dương lịch. Toàn bộ dịp Tết Nguyên đán hàng năm thường kéo dài trong khoảng 7 đến 8 ngày cuối năm cũ và 7 ngày đầu năm mới (23 tháng Chạp đến hết ngày 7 tháng Giêng).
Hàng năm, Tết được tổ chức vào ngày mồng 1 tháng 1 theo âm lịch trên đất nước Việt Nam và ở một vài nước khác có cộng đồng người Việt sinh sống. Trong những ngày Tết, các gia đình sum họp bên nhau, cùng thăm hỏi người thân, mừng tuổi và thờ cúng tổ tiên… Theo phong tục tập quán, Tết thường có những điều kiêng kỵ.
Văn hóa Đông Á – thuộc văn minh nông nghiệp lúa nước – do nhu cầu canh tác nông nghiệp đã “phân chia” thời gian trong một năm thành 24 tiết khí khác nhau (và ứng với mỗi tiết này có một thời khắc “giao thừa”) trong đó tiết quan trọng nhất là tiết khởi đầu của một chu kỳ canh tác, gieo trồng, tức là Tiết Nguyên Đán sau này được biết đến là Tết Nguyên Đán.
Theo lịch sử Trung Quốc, nguồn gốc Tết Nguyên Đán có từ đời Tam Hoàng Ngũ Đế và thay đổi theo từng thời kỳ. Đời Tam đại, nhà Hạ chuộng màu đen nên chọn tháng giêng, tức tháng Dần. Nhà Thương thích màu trắng nên lấy tháng Sửu, tức tháng chạp, làm tháng đầu năm. Nhà Chu ưa sắc đỏ nên chọn tháng Tý, tức tháng mười một, làm tháng Tết. Các vua chúa nói trên quan niệm về ngày giờ “tạo thiên lập địa” như sau: giờ Tý thì có trời, giờ Sửu thì có đất, giờ Dần sinh loài người nên đặt ra ngày tết khác nhau. Đời Đông Chu, Khổng Tử đổi ngày Tết vào một tháng nhất định là tháng Dần. Đời nhà Tần (thế kỷ 3 TCN), Tần Thủy Hoàng lại đổi qua tháng Hợi, tức tháng mười. Đến thời nhà Hán, Hán Vũ Đế (140 TCN) lại đặt ngày Tết vào tháng Dần, tức tháng giêng. Từ đó về sau, không còn triều đại nào thay đổi về tháng Tết nữa.
Nguồn gốc của tết vẫn còn đang được tranh cãi, nhưng hầu hết thông tin đều cho rằng ngày tết Nguyễn Đán có nguồn gốc từ Trung Quốc và được du nhập về Việt Nam trong 1000 năm bắc thuộc. Nhưng theo sự tích “Bánh chưng bánh dày” thì người Việt đã ăn tết từ trước thời vua Hùng, nghĩa là trước 1000 năm bắc thuộc.
Thời Tam Hoàng Ngũ Đế từ năm 2852 – 2205 TCN, nhưng theo lịch sữ Việt Nam cho thấy: “Họ Hồng Bàng dựng nước Văn Lang từ năm Nhâm Tuất 2879 TCN, trị vì cả 2.622 năm. Kinh Dương Vương sinh ra Lạc Long Quân, sau khi nối ngôi, vị vua hiền đức này kết hôn cùng bà Âu Cơ sinh ra Hùng Vương. Từ thời đó, người Việt ta đã ăn Tết.”. Ta có thể thấy tết ở Việt Nam đã có từ rất lâu, trước thời Tam Hoàng Ngũ Đế. Khổng Tử đã viết trong cuốn Kinh Lễ: “Ta không biết Tết là gì, nghe đâu đó là tên của một ngày lễ hội lớn của bọn nguời Man, họ nhảy múa như điên, uống rượu và ăn chơi vào những ngày đó, họ gọi tên cho ngày đó là Tế Sạ”. Sách Giao Chỉ Chí cũng có đoạn viết “Bọn người Giao Quận thường tập trung lại từng phường hội nhảy múa hát ca, ăn uống chơi bời trong nhiều ngày để vui mừng một mùa cấy trồng mới, chúng gọi ngày đó là Nèn- Thêts, không những chỉ có dân làm nông mà tất cả người nhà của Quan lang, Chúa động cũng đều tham gia lễ hội này. Chỉ có bọn man di mới có ngày hội mà người trên kẻ dưới cùng nhau nhảy múa như cuồng vậy, bên ta không có sự Quân thần điên đảo như thế.” Ta cũng có thể nói Tết có nguồn gốc từ Việt Nam.
Tết của hai quốc gia Việt Nam và Trung Quốc có ảnh hưởng lẫn nhau, nhưng vẫn có những đặc trưng riêng của hai quốc gia.
Trước năm 1967, Việt Nam lấy múi giờ Bắc Kinh làm chuẩn cho âm lịch. Ngày 8 tháng 8 năm 1967, nhà nước Việt Nam Dân chủ Cộng hòa (CSVN) ban hành đổi lịch dùng múi giờ GMT+7 làm chuẩn ở miền Bắc. Vì thế hai miền nam bắc Việt Nam đón Tết Mậu Thân hai ngày khác nhau (miền Bắc ngày 29 tháng 1 trong khi miền Nam thì ngày 30 tháng 1). Từ năm 1976, cả 2 miền nam bắc mới dùng chung múi giờ GMT+7….
Thế đấy nhé. Tết Ta, không phải Tết Tàu

Thứ Bảy, 14 tháng 1, 2017

CÁC LOẠI BÓNG ĐÈN

Hà Dương Cự/Người Việt.

alt

Các loại bóng đèn. (Nguồn: energy.gov).
Khoảng mười năm trước, đi mua bóng đèn là một chuyện đơn giản. Nếu muốn sáng thì mua bóng 75, hay 100 watt, không muốn sáng lắm thì mua bóng 40, hay 60 watt, thế thôi !.
Bây giờ không còn đơn giản như vậy nữa đâu, ngoài bóng đèn bình thường còn có bóng Halogen, bóng CFL, và bóng LED nữa. Biết chọn cái nào? Cái nào tốt, cái nào xấu? Trong bài này chúng tôi nói về các loại bóng đèn, và sự lợi hại của chúng.
Bóng đèn nóng sáng (incandescent bulb):
Chữ “bóng đèn nóng sáng” thật ra không có gì khác hơn là bóng đèn vẫn thường dùng. Sở dĩ gọi như vậy là để phân biệt với những loại bóng đèn khác. Vào đầu thế kỷ thứ 18, sau khi phát minh ra điện, các nhà Sáng chế bên Âu Châu đã nghĩ đến việc dùng điện để phát ra ánh sáng thay cho đèn dầu. Tuy nhiên phải mất rất nhiều năm mới hoàn thành được bóng đèn. Từ ông Humphrey Davy bên Anh năm 1802 phát minh ra đèn điện đầu tiên, tới ông Thomas Edison được cấp bằng sáng chế về bóng đèn điện bên Hoa Kỳ vào năm 1879.
Vấn đề khó khăn là dây tóc đèn (filament) không bền, hay bị cháy. Lịch sử cho biết là ông Edison đã thử nghiệm tới 3,000 kiểu bóng đèn khác nhau, từ năm 1878 đến năm 1880. Sau đó thì ông Edison dành suốt một năm để tìm chất liệu hoàn hảo cho dây tóc đèn, ông đã thử nghiệm tới 6,000 loại cây cỏ.
Bóng đèn nóng sáng thường gồm có một trái cầu bằng thủy tinh, bên trong chứa một chất khí trơ (inert gas), và một dây tóc đèn bằng tungsten, nối với dây điện. Khi bật đèn lên thì một dòng điện chạy qua dây tungsten, làm cho dây này nóng lên cao độ, mà phát ra ánh sáng.
Bóng đèn Halogen:
Đèn Halogen trên nguyên tắc là một loại bóng đèn nóng sáng. Nghĩa là vẫn dùng tungsten làm dây tóc đèn, nhưng vỏ bọc bằng thạch anh (quartz) chứ không bằng thủy tinh, và chất hơi bên trong có một ít chất hơi thuộc họ halogen như: iodine, hay bromine. Với những kỹ thuật này nên bóng đèn Halogen có thể cháy sáng với nhiệt độ cao hơn bóng đèn thường rất nhiều, và như vậy tăng năng suất của bóng đèn lên gấp đôi. Tuy nhiên một trở ngại lớn của bóng đèn Halogen là sức nóng quá cao. Nếu để gần một vật gì dễ cháy có thể gây hỏa hoạn.
Bóng đèn nóng sáng tuy rẻ tiền, nhưng hiệu năng rất thấp. Chỉ có 10% năng lượng dùng làm sáng còn 90% thì bị thất thoát như là nhiệt. Đèn Halogen thì khá hơn: 20% năng lượng dùng để tỏa sáng, còn 80% thì thất thoát.
Vì lý do đó, hầu hết các nước trên thế giới đã loại dần bóng đèn nóng sáng thường, mà thay vào đó là bóng đèn Halogen,  hay 2 loại bóng đèn mới.
Đó là bóng đèn huỳnh quang gọn (compact fluorescent lamp CFL), và bóng đèn diode phát quang (light emitting diode LED). Trong bài này chúng tôi dùng chữ bóng đèn CFL, và LED cho tiện.
Đơn vị đo ánh sáng:
Hồi trước người ta thường dùng watt để phân biệt các bóng đèn, như 60 watt hay 100 watt, với ý nghĩa watt là đơn vị đo ánh sáng. Thật ra không phải vậy đâu, mà watt là đơn vị đo lượng tiêu thụ điện. Đơn vị đo ánh sáng tỏa ra là lumen. Một lumen tương đương với ánh sáng tỏa ra bởi một đèn cầy.
Để được chính xác, các nhà sản xuất bóng đèn bắt đầu dùng từ lumen thay cho watt, thí dụ như trên hộp bóng đèn có in chữ “300 lumens.” Nhưng vì người ta vẫn quen với watt, nên họ còn để thêm câu “40 watt equivalent.”
Bóng đèn CFL:
Tiền thân của đèn CFL là đèn huỳnh quang (fluorescent lamp). Đèn huỳnh quang hồi xưa còn được gọi là đèn nê-ông (theo tiếng Pháp néon) hay đèn ống, vì nó dài như cái ống. Loại đèn huỳnh quang mới nhỏ và gọn hơn nhiều, nên gọi là bóng đèn huỳnh quang gọn CFL. Có nhiều hình thể của bóng đèn CFL (nguồn: energy.gov), như hình sau đây:
Các loại bóng đèn Halogen, CFL, LED
 
Nguyên tắc bóng đèn CFL:
Khi bật đèn huỳnh quang lên, thì một dòng điện đi qua một môi trường khí trơ có trộn một ít khí thủy ngân để dẫn điện. Khí này phát ra ánh sáng tử ngoại (ultraviolet light), ánh sáng này mắt thường không nhìn thấy. Nhưng tia tử ngoại tác động với một hợp chất đặc biệt phosphor  tráng quanh phần trong của đèn, và biến thành ánh sáng trắng, mắt thường thấy được. Hình minh họa nguyên tắc đèn huỳnh quang (nguồn: energy.gov):
Các loại bóng đèn Halogen, CFL, LED
 

 Đèn huỳnh quang cần có một dụng cụ đặc biệt, gọi là chấn lưu (ballast), dùng để điều hòa dòng điện, và cung cấp điện áp lúc khởi đầu. Có hai loại chấn lưu: loại cũ là chấn lưu từ (magnetic ballast) không còn được dùng nữa, và loại mới là chấn lưu điện tử (electronic ballast).
Chấn lưu điện tử có hiệu năng cao hơn, và không có tiếng kêu như chấn lưu từ. Tuy nhiên vẫn phải chờ một lúc đèn mới sáng. Nhưng nó có khả năng làm đèn mờ đi (dimmable), và nối vào mạng để có thể kiểm soát ánh sáng một cách dễ dàng.
Bóng đèn CFL có hiệu năng cao hơn bóng đèn nóng sáng, dùng năng lượng ít hơn khoảng từ 25% đến 80%, và cũng bền hơn nữa. Một bóng đèn CFL có thể kéo dài tới 10,000 giờ, tức là bền hơn bóng đèn thường từ 3 tới 25 lần.
Bóng đèn LED:
Ông Nick Holonuak phát minh ra đèn LED năm 1962, khi đang làm cho Công ty GE. Nhưng Công ty Texas Instrument có bằng sáng chế, và bán đèn LED đầu tiên. Cho tới gần đây, chỉ có đèn LED màu đỏ, và màu xanh lá cây như thường thấy trên các dụng cụ điện tử.
Nguyên tắc bóng đèn LED:
Như tên gọi, bóng đèn diode phát quang (LED) là một diode phát ra ánh sáng.  Diode là một chất bán dẫn điện (semiconductor) cho phép dòng điện chạy qua theo một chiều. Chất bán dẫn điện được cấu tạo bởi hai thành phần gọi là p-type, và n-type. Ở giữa là mặt tiếp giáp (junction). Phía bên p-type có những “lỗ hổng” để nhận điện tử (electron), phía bên n-type có dư điện tử.
Khi dòng điện đi qua thì điện tử từ bên n-type đi qua bên p-type để lấp vào lỗ hổng. Khi đó điện tử phóng thích năng lượng theo dạng quang tử (photon), tức là phát ra ánh sáng. Đây là hình minh họa của diode phát quang (nguồn: www.colorkinetics.com):

Các loại bóng đèn Halogen, CFL, LED


Tùy theo chất liệu dùng làm chất bán dẫn ánh sáng phát ra có màu khác nhau. Vì hiệu năng cao, nên từ lâu người ta đã muốn dùng LED cho đèn thường, nhưng không có chất bán dẫn nào mà phát ra ánh sáng trắng như bóng đèn nóng sáng, hay bóng đèn CFL. Người ta cũng biết rằng: có thể tạo ra ánh sáng trắng bằng cách phối hợp ánh sáng ba màu đỏ, xanh lá cây, và xanh. Nhưng cho tới thập niên 1990 chưa có ai làm được LED với ánh sáng xanh.
Năm 1991, ông Shuji Nakamura đã thí nghiệm thành công việc dùng chất bán dẫn gallium nitride để tạo LED với ánh sáng xanh. Được biết ông Nakamura lúc ấy đang làm cho Nichia, một Công ty rất nhỏ bên Nhật. Ông làm việc nghiên cứu dưới một điều kiện khó khăn. Nhưng vì tính kiên trì, chịu khó, và khéo léo, nên ông đã làm được một việc mà chưa có ai làm được. Vì khám phá này ông Nakamura đã được trao giải Nobel về Vật lý vào năm 2014.
Đặc điểm của bóng đèn LED:
Bóng đèn LED đắt hơn các thứ bóng đèn khác, nhưng tính về lâu về dài thì mua bóng đèn LED có lợi hơn, vì có nhiều điểm tốt. Những đặc điểm của bóng đèn LED:
-Hiệu năng cao, và có thể giảm năng lượng tiêu thụ tới 80% so với bóng đèn thường.
-Rất là bền, có thể dùng tới 25,000 giờ.
-Ít phải bảo trì.
-Không tỏa nhiệt.
-Nhỏ, có thể nhỏ tới mức 0.3 mm x 0.3 mm.
-Bật lên là sáng liền.
-Màu sắc rực rỡ.

——-