Thứ Hai, 31 tháng 10, 2016

3 CÂU CHUYỆN

Tiểu bang South Dakota (Nam Dakota)



South Dakota được người Việt Nam mình dịch là Nam Dakota. Đây là một tiểu bang của vùng Trung-Tây Hoa Kỳ (Midwestern region). Tiểu bang nầy rộng hạng 17 ở Mỹ, và ít dân hạng 5. Sở dỉ gọi vùng này là Dakota vì trước đây bộ lạc da đỏ Lakota hay Dakota đã từng sống và cai trị vùng đất này, trước khi người da trắng đến. Vùng đất Dakota sau này được chia làm hai, Nam Dakota và Bắc Dakota (North Dakota). Thủ phủ bang này là thành phố Pierre, và Sioux Falls là thành phố lớn nhất. Mấy năm trước vợ chồng tôi đã đến đây du lịch, thăm viếng nhiều nơi, đặc biệt đỉnh Rushmore, có hình 4 Tổng Thống lớn nhất nước Mỹ. Mời các bạn đọc loạt bài về chuyến du hành này ở bài riêng. Bài này chỉ nói tổng quát về tiểu bang South Dakota mà thôi.

South Dakota giáp ranh với North Dakota ở phía Bắc, Nebraska ở phía Nam, Wyoming ở phía Tây, và Missouri ở phía Đông. Bang này còn được biết đến với tên "Tiểu bang Đỉnh Rushmore” (Mount Rushmore State). Đây là biệt danh chánh thức. Ngoài ra nó còn có hai biệt danh khác, nhưng không chánh thức, Coyote state (Tiểu bang Sói đồng cỏ) và Sunshine state (Tiểu bang nhiều Nắng).

Sông Missouri chia South Dakota thành hai phần tử Bắc chí Nam, tên “East River” phía Đông sông, và “West River”, phía Tây sông. Hai khu vực này rất khác biệt trên phương diện địa lý và đặc biệt xã hội. Phần lớn dân cư đều sống ở phía Đông sông Missouri. Ở đây đất đai phì nhiêu nên dân chúng sống nhờ nóng nghiệp. Phía Tây nghèo hơn do người da đó ở. Ở đây người ta sống nhờ du lịch. Đỉnh Rushmore nằm ở đây. Nhiều khu da đỏ nằm ở đây.

Các bạn xem phim ảnh chắc có thấy ngọn núi khắc hình 4 Tổng Thống của nước Mỹ. Núi nầy tên núi Rushmore (Mt Rushmore). Đây là một Di Sản Quốc Gia của Mỹ. Bốn vị Tổng Thống được chọn khắc ở đây là 4 Tổng Thống lớn của Mỹ, đại diện cho những gì cao quí nhất của dân Mỹ: người đã lãnh đạo nước Mỹ giành độc lập (George Washington), người đã viết Hiến Pháp Mỹ, với những quyền tự do dân chủ và quyền con người như ngày nay (Thomas Jefferson), người đã giải phóng nô lệ da đen (Abraham Lincoln), đặt nền tảng cho xã hội bình đẳng giữa tất cả mọi công dân, và sau cùng người cấp tiến đã đặt nền tảng cho xã hội tư bản hiện đại của Mỹ (Theodore Roosevelt).

Mount Rushmore National Memorial (Núi Rushmore – Khu Tưởng niệm Quốc gia) là một tác phẩm điêu khắc 4 vị Tổng Thống lớn của nước Mỹ vào khối đá granite ở núi Rushmore. Nó nằm gần thành phố Keystone ở bang South Dakota Hoa Kỳ, mỗi năm khoảng 3 triệu du khách đến tham quan. Vợ chồng tôi đã đến đây thăm viếng mấy năm trước, hay lắm. Mặt của 4 Tổng Thống này do điêu khắc gia Gutzon Borglum và con là Lincoln Borglum điêu khắc lên núi đá, với chiều cao là 18 thước. Theo kế hoạch tượng này là tượng bán thân, nhưng vì hết tiền và tìm ngân khoản khó khăn nên chỉ tạc mặt Tổng Thống mà thôi. Núi Rushmore nằm ở độ cao 1,745 thước trên mực nước biển. Diện tích khu Tưởng Niệm này là 5.17 cây số vuông

 Sau đây là tổng hợp 175 cái tên mà "Cụ Hồ" đã sử dụng
1. Nguyễn Sinh Cung, 1890.
2. Nguyễn Sinh Côn, 1954.
3. Nguyễn Tất Thành, 1901.
4. Nguyễn Văn Thành
5. Nguyễn Bé Con
6. Văn Ba, 1911.
7. Paul Tat Thanh, 1912.
8. Tất Thành, 1914.
9. Paul Thanh, 1915.
10. Nguyễn Ái Quốc, 1919.
11. Phéc-đi-năng
12. Albert de Pouvourville, 1920.
13. Nguyễn A.Q., 1921-1926.
14. Culixe, 1922.
15. N.A.Q., 1922.
16. Ng.A.Q., 1922.
17. Henri Tran, 1922.
18. N., 1923.
19. Chen Vang, 1923
20. Nguyễn, 1923.
21. Chú Nguyễn, 1923.
22. Lin, 1924.
23. Ái Quốc, 1924.
24. Un Annamite, 1924.
25. Loo Shing Yan, 1924.
26. Ông Lu, 1924.
27. Lý Thụy, 1924.
28. Lý An Nam, 1924-1925.
29. Nilopxki (N.A.Q.), 1924.
30. Vương, 1925.
31. L.T., 1925.
32. Howang T.S., 1925.
33. Z.A.C., 1925.
34. Lý Mỗ, 1925.
35. Trương Nhược Trừng, 1925.
36. Vương Sơn Nhi, 1925.
37. Vương Đạt Nhân, 1926.
38. Mộng Liên, 1926.
39. X., 1926.
40. H.T., 1926.
41. Tống Thiệu Tổ, 1926.
42. X.X., 1926.
43. Wang, 1927.
44. N.K., 1927.
45. N. Ái Quốc, 1927.
46. Liwang, 1927.
47. Ông Lai, 1927.
48. A.P., 1927.
49. N.A.K., 1928.
50. Nguyễn Lai, 1928.
51. Thọ, 1928
52. Nam Sơn, 1928.
53. Chín (Thầu Chín), 1928.
54. Victor Lebon, 1930.
55. Ông Lý(Lee), 1930.
56. Ng. Ái Quốc, 1930.
57. L.M.Vang, 1930.
58. Tiết Nguyệt Lâm, 1930.
59. Paul, 1930.
60. T.V. Wang, 1930.
61. Công Nhân, 1930.
62. Victo, 1930.
63. V., 1931.
64. K., 1931.
65. Đông Dương, 1931.
66. Quac E. Wen, 1931.
67. K.V., 1931.
68. Lão Trịnh, 1931.
69. Năm, 1931.
70. Lý Phát, 1931.
71. Viên, 1931.
72. Tống Văn Sơ, 1931.
73. New Man, 1933.
74. Linov, 1934.
75. Teng Man Huon, 1935.
76. Hồ Quang, 1938.
77. P.C. Lin (P.C. Line), 1938.
78. D.C. Lin, 1939.
79. Lâm Tam Xuyên, 1939.
80. Ông Trần, 1940.
81. Bình Sơn, 1940.
82. Đi Đông.
83. Cúng Sáu Sán, 1941.
84. Già Thu, 1941.
85. Kim Oanh, 1941.
86. Bé Con, 1941.
87. Ông Cụ, 1941.
88. Hoàng Quốc Tuấn, 1941.
89. Bác, 1941.
90. Thu Sơn, 1942.
91. Xung Phong, 1942.
92. Hồ Chí Minh, 1942.
93. Hy Sinh, 1942.
94. Cụ Hoàng, 1945.
95. C.M.Hồ, 1945.
96. Chiến Thắng, 1945.
97. Ông Ké, 1945.
98. Hồ Chủ Tịch, 1945.
99. Hồ, 1945.
100. Q.T., 1945.
101. Q.Th., 1945.
102. Lucius, 1945.
103. Bác Hồ, 1946.
104. H.C.M., 1946.
105. Đ.H., 1946.
106. Xuân, 1946.
107. Một Người Việt Nam, 1946.
108. Tân Sinh, 1947.
109. Anh, 1947.
110. X.Y.Z., 1947.
111. A., 1947.
112. A.G., 1947.
113. Z., 1947.
114. Lê Quyết Thắng, 1948.
115. K.T., 1948.
116. K.Đ., 1948.
117. G., 1949.
118. Trần Thắng Lợi, 1949.
119. Trần Lực, 1949.
120. H.G., 1949.
121. Lê Nhân, 1949.
122. T.T., 1949.
123. Đanh, 1950.
124. Đinh, 1950.
125. T.L., 1950.
126. Chí Minh, 1950.
127. CB., 1951.
128. H., 1951.
129. Đ.X., 1951.
130. V.K., 1951.
131. Nhân Dân, 1951.
132. N.T., 1951.
133. Nguyễn Du Kích, 1951.
134. Nguyên, 1953.
135. Hồng Liên, 1953.
136. Nguyễn Thao Lược, 1954.
137. Lê, 1954.
138. Tân Trào, 1954.
139. H.B., 1955.
140. Nguyễn Tâm, 1957.
141. K.C., 1957.
142. Chiến Sỹ, 1958.
143. T., 1958.
144.Thu Giang, 1959.
145. Nguyên Hảo Studiant, 1959.
146. Ph.K.A., 1959.
147. C.K., 1960.
148. Tuyết Lan, 1960.
149. Jean Fort, 1960.
150. Trần Lam, 1960.
151. Một người Việt kiều ở Pháp về, 1960.
152. K.K.T., 1960.
153. T.Lan, 1961.
154. Luật sư Th. Lam, 1961.
155. Ly, 1961.
156. Lê Thanh Long, 1963.
157. CH-KOPP (Alabama), 1963.
158. Than Lan, 1963.
159. Ng. Văn Trung, 1963.
160. Ngô Tâm, 1963.
161. Nguyễn Kim, 1963.
162. Dân Việt, 1964.
163. Đinh Văn Hảo, 1964.
164. C.S., 1964.
165. Lê Nông, 1964.
166. L.K., 1964.
167. K.O., 1965.
168. Lê Ba, 1966.
169. La Lập, 1966.
170. Nói Thật, 1966.
171. Chiến Đấu, 1967.
172. B., 1968.
173. Việt Hồng, 1968.
174. Đinh Nhất, 1968.
175. Trần Dân Tiên.
Mọi người có thể giải thích dùm: - Tại sao lúc sinh ra thì ổng họ Nguyễn mà lúc chết thì ổng họ Hồ không?? Đơn giản, vì lúc sinh ra "Thánh Clone họ Hồ" là người Việt Nam, nhưng lúc chết đi lại là người Trung Quốc. 8-|Tên cha sinh mẹ đẻ ban cho mà cụ vứt bỏ thì cụ có phải gốc người Việt đâu?(st)


LỄ CÁC ĐẲNG: TRI ÂN TÌNH CHA TÌNH MẸ
Đây là một câu chuyện có thật về sự hy sinh của một người mẹ trong trận động đất kinh hoàng ở Nhật Bản. Sau khi trận động đất đã qua đi, khi các nhân viên cứu hộ đến thu dọn ngôi nhà của một người phụ nữ trẻ, họ nhìn thấy thân thể cô ấy qua các vết nứt. Nhưng cách tạo hình cơ thể của cô có gì đó rất lạ, tựa như một người đang quỳ gối cầu nguyện, cơ thể nghiêng về phía trước, và có một vật gì đó được hai tay của cô đỡ lấy. Ngôi nhà bị sụp và đổ ập lên lưng và đầu cô.
Người đội trưởng đội cứu hộ đã rất khó khăn khi luồn tay mình qua khoảng cách hẹp trên tường để chạm tới cơ thể của người phụ nữ. Anh ấy đã hy vọng rằng người phụ nữ này có thể vẫn còn sống. Nhưng, cơ thể lạnh và cứng của cô nói với anh rằng, cô ấy chắc chắn đã qua đời.
Đội cứu hộ rời khỏi ngôi nhà và tìm kiếm tại những toà nhà sụp đổ khác. Nhưng không hiểu sao, người đội trưởng dường như bị một lực hút kéo trở lại căn nhà sụp đổ của người phụ nữ đã chết. Một lần nữa, anh quỳ xuống, và lần tìm qua những khe nứt hẹp một chút không gian dưới cơ thể đã chết. Rồi đột nhiên, anh hét lên đầy phấn chấn : "Một đứa bé ! ! ! ! Có một đứa bé !”.
Cả đội cùng nhau cẩn thận bỏ từng cái cọc trong đống đổ nát xung quanh xác người phụ nữ. Có một bé trai 3 tháng tuổi được bọc trong một tấm chăn hoa ngay bên dưới xác người mẹ. Người phụ nữ rõ ràng đã thực hiện một hành động hy sinh cuối cùng để cứu con trai mình. Khi ngôi nhà của cô rơi xuống, cô đã dùng cơ thể của mình để làm tấm chắn bảo vệ con trai mình. Cậu bé vẫn ngủ một cách yên bình khi đội trưởng đội cứu hộ nhấc bé lên.
Bác sĩ đã nhanh chóng kiểm tra sức khoẻ cậu bé. Sau khi ông mở tấm chăn, ông nhìn thấy một chiếc điện thoại di động bên trong. Có một tin nhắn văn bản trên màn hình, nói rằng, "Nếu con có thể sống sót, con phải nhớ rằng mẹ rất yêu con" ...
Chiếc điện thoại này đã đi từ bàn tay này đến bàn tay khác và qua bàn tay khác. . .Tất cả những người đọc tin nhắn đều đã khóc. "Nếu con có thể sống sót, con phải nhớ rằng ... mẹ rất yêu con ...”.
Tháng 11 lại về đem lại cho chúng ta một chút tâm tình tri ân tình cha, tình mẹ. Một tình yêu bao la như trời bể mà cha ông ta vẫn nói rằng:
"Công cha đức mẹ cao dày
Cưu mang trứng nước những ngày còn thơ
Nuôi con khó nhọc đến giờ
Trưởng thành con phải biết thờ song thân".
"Biết thờ song thân", thờ trong khi sống, thờ sau khi chết, thờ thế nào cho phải đạo làm con, cho xứng đáng phần nào công lao tảo tần nuôi con của mẹ:
"Nuôi con buôn tảo bán tần
Chỉ mong con lớn nên thân với đời
Những khi trái nắng trở trời
Con đau làm mẹ đứng ngồi không yên
Trọn đời vất vả triền miên,
Chạy lo bát gạo đồng tiền nuôi con".
Thế nên, nếu so sánh công đức của cha mẹ như non cao cũng chưa xứng đáng. Tình cha tình mẹ còn vượt xa không gian và thời gian. Có thể nói tình cha tình mẹ mãi không già luôn tươi trẻ trong cuộc đời của con. Cha mẹ có thể không để lại cho con gia tài lớn lao hay những công trình vĩ đại nhưng cha mẹ luôn để lại cho con một tình yêu thương vô ngần dành cho con. Vì thế mà có ai đó nói rằng:
Đi khắp thế gian không ai tốt bằng Mẹ
Gánh nặng cuộc đời không ai khổ bằng Cha
Tình cha mẹ thương con là một tình yêu không biên giới. Một tình yêu vượt qua mọi toan tính vật chất để có thể bảo vệ che chở đời con. Đó là một tình yêu to lớn đầy hy sinh cho đàn con khôn lớn:
Mây trời lòng lộng không phủ kín công Cha
Tần tảo xóm hôm Mẹ nuôi con khôn lớn
Lá cây trong rừng dẫu nhiều cũng không thể sánh bằng công ơn của cha mẹ. Sao trên trời thật khó đếm, nhưng công ơn của cha mẹ lại càng khó đếm hơn những vì sao:
"Ðố ai đếm được lá rừng,
Ðố ai đếm được mấy từng trời cao
Ðố ai đếm được những vì sao,
Ðố ai đếm được công lao mẫu từ".
Chín tháng cưu mang, ba năm bú mớm, sinh lực hao mòn, nặng nhọc gánh chịu, làm sao ta có thể quên được tình mẹ bao la như biển cả ấy:
"Nhớ ơn chín chữ cù lau
Ba năm nhủ bộ biết bao nhiêu tình".
Tình ở đây là tình mẹ thương con. Tình thương ấy thật bao la, bát ngát, nên mỗi khi mẹ cất tiếng ru con thì đời con thêm tươi sáng:
"Ví dầu cầu ván đóng đinh,
Cầu tre lắc lẻo gập ghềnh khó đi.
Khó đi mẹ dắt con đi,
Con đi trường học mẹ đi trường đời".
Vậy, đổi lại sự hy sinh của tình cha tình mẹ, các ngài cần gì nơi chúng ta? Chắc chắc không phải là tiền bạc, vì tiền bạc các ngài dành dụm để trao lại cho chúng ta. Chắc chắc đó không phải là danh vọng, vì tuổi già chẳng còn ham muốn những tham sân si của dòng đời. Các ngài cần tình yêu của chúng ta qua sự chăm sóc, thăm nom của chúng ta khi các ngài còn sống. Và khi các ngài đã qua đời, đó chính là lời cầu nguyện của chúng ta dành cho các ngài.
Người phụ nữ Nhật trước khi chết chỉ để lại một thông điệp cho con chính là: “con phải nhớ rằng mẹ rất yêu con" ... Đó chính là thông điệp của tất cả các đấng sinh thành kẻ còn sống cũng như người đã qua đời đang nói trong con tim mỗi người chúng ta. Chúng ta được sinh ra trong tình cha tình mẹ, được lớn lên trong tình thương đó và tình thương đó mãi mãi theo chúng ta trong suốt hành trình cuộc đời. Đó cũng là bổn phận mà chúng ta phải báo hiếu qua hai chữ yêu thương. Yêu thương thể hiện của lòng thảo kính vâng phục các ngài. Yêu thương thể hiện qua chữ hiếu luôn phụng dưỡng cha mẹ lúc tuổi già. Yêu thương thể hiện qua lời cầu nguyện ngày đêm dành cho những người đã qua đời.
Ước gì mỗi người chúng ta từng được cưu mang trong tình yêu của cha mẹ thì hãy sống sao cho tròn chữ hiếu. Hãy biết tận dụng tháng 11 để tích luỹ ơn ích thiêng liêng mà cầu nguyện cho các ngài. Hãy làm việc bác ái, hy sinh và cầu nguyện giúp các ngài vượt qua cuộc thử thách trước toà phán xét của Thiên Chúa. Ước gì những hy sinh và lời cầu nguyện chân thành của chúng ta là lễ vật đẹp nhất để dâng về Thiên Chúa và dâng kính tổ tiên. Amen
Lm.Jos Tạ duy Tuyền

Không có nhận xét nào:

Đăng nhận xét