Tuy là một phụ nữ nết na và rất biết cách ăn ở, trong thời gian sống ở Hoàng thành Huế, bà hoàng hậu cuối cùng của nước Việt cũng gặp phải những vấn đề mẹ chồng nàng dâu như ai.
Hoàng hậu Nam Phương.
Hoàng
hậu Nam Phương vẫn được đánh giá cao về trí thông minh và phẩm hạnh, là
người kết hợp hài hòa nét đẹp truyền thống và hiện đại, phương Đông và
phương Tây. Tuy không phải là nàng
dâu mà hoàng tộc muốn lựa chọn nhưng khi vào sống trong kinh thành Huế,
bà đã khéo léo giữ phận dâu con. Bà hoàng Tây học đầu tiên và duy nhất
này ngoài việc dạy dỗ con cái còn cùng với bộ Lễ lo về lễ tiết, cúng kỵ,
thăm hỏi mẹ chồng và các bà nội chồng… Thật
sự người ta không tìm ra được điểm nào trong cách hành xử của bà để chê
bai, ấy vậy mà xung đột mẹ chồng nàng dâu vẫn ngấm ngầm nảy nở.
Những mâu thuẫn xung quanh “hoàng tử bé”
Những
năm đầu tiên trong cuộc hôn nhân với hoàng đế Bảo Đại, Nam Phương cực
kỳ hạnh phúc, vợ chồng đi đâu cũng có nhau. Nhà vua thường tự mình lái
xe chở vợ đi chơi mỗi tuần, hết Nha Trang
lại Đà Lạt, thậm chí cả lên Tây Nguyên săn bắn. Ái ân đằm thắm nên
những đứa con cũng nối nhau ra đời, đầu tiên là hoàng tử Bảo Long, sinh
vào đêm 4/1/1936.
Đêm
ấy, nghe 7 phát súng thần công, người dân Huế biết hoàng hậu đã hạ sinh
một hoàng tử, người sẽ kế vị ngai vàng. Với thái hậu Từ Cung mà nói,
đây là một sự kiện không thể vui hơn. Nước
Việt thời ấy, ngay cả trong gia đình thường dân, đứa cháu trai cũng còn
thuộc quyền của ông bà nội nữa là gia đình vua chúa.
Thế nhưng trong gia đình Bảo Đại lại khác, bởi để cưới được Nam Phương, nhà
vua đã cam kết để bà giữ đạo Thiên Chúa. Và để hoàng hậu
không bị Vatican rút phép thông công vì lấy chồng ngoại đạo, ông cũng
chấp nhận điều kiện của Tòa thánh: các con sinh ra sẽ rửa tội theo đạo
của mẹ.
Chính
vì vậy, hoàng tử Nguyễn Phúc Bảo Long đã chịu phép rửa tội và đặt tên
thánh là Phillipe, dĩ nhiên cái lễ “nhạy cảm” này được hoàng hậu tổ chức
lặng lẽ và kín đáo.
Hoàng
tử lớn hơn
một chút, bà yêu cầu con trai mỗi tối đến phòng mình đọc kinh cầu
nguyện. Hằng tuần, có một linh mục đến làm lễ riêng cho hoàng hậu và bà
cũng để con trai tham gia.
Với sự “bồi dưỡng” của mẹ, hoàng tử Bảo Long từ khi còn ít tuổi đã rất chăm cầu nguyện và thuộc
nhiều kinh.
Nam Phương hoàng hậu với hoàng tử Bảo Long và công chúa Phương Mai.
Là
cháu đích tôn của hoàng tộc, dĩ nhiên Bảo Long vẫn được giáo dục theo
tinh thần Phật giáo, thế nhưng Nam Phương đã cố gắng tránh cho con trai
mình tham dự quá nhiều lễ nghi cổ truyền
mang màu sắc đạo Phật. Điều này, bà Từ Cung hẳn cũng cảm nhận được tuy
không có cớ bắt bẻ con dâu.
Tuy
nhiên, thái hậu khó mà không tức giận khi bà bắt cháu đeo những đạo bùa
cầu an, trừ tà ở cổ tay mà mẹ nó nhất quyết phản đối.
Một
điều nữa khiến thái hậu Từ Cung khó chịu là hoàng hậu Nam Phương và
hoàng tử Bảo Long thường nói chuyện với nhau bằng tiếng Pháp những khi ở
nhà, khiến bà không thể hiểu con dâu và
cháu nội nói gì.
Bà
Từ Cung vốn xuất thân không cao sang, học vấn lại khá “khiêm tốn”, nên
hẳn không thoải mái, dễ chịu gì trước việc nàng dâu hiểu nhiều biết
rộng, tiếng Pháp nói như gió, có thể qua mặt bà trong việc dạy dỗ đứa
cháu đích tôn.
Bà cũng biết
rằng Bảo Long không thích dự các nghi lễ Phật giáo mà bà sùng mộ, chỉ thích các lễ nghi Tây phương và Thiên Chúa giáo.
Cậu
bé thích nói tiếng Pháp nên giao tiếp nhiều với các quan Tây, các quan
trong triều muốn nói chuyện với hoàng tử và hoàng hậu thường hay
phải dùng tiếng Pháp.
Là
một bà mẹ chồng, một thái hậu, có toàn quyền trong hậu cung nhưng bà Từ
Cung lại bất lực nhìn kẻ nối ngôi được giáo dục theo một đường hướng mà
bà không mong muốn. Vì thế, tuy không
công khai đả kích Nam Phương nhưng tình cảm mẹ chồng nàng dâu không thể
nói là tốt đẹp, mâu thuẫn cứ ngấm ngầm phát triển.
Không thích hoàng hậu, thái hậu mở lòng với các “thứ phi”
Thực
ra, mối bất hòa giữa thái hậu và hoàng hậu cuối cùng triều Nguyễn cũng
khó mà không xảy ra, cho dù hai bên có giỏi kiềm chế tới đâu chăng nữa.
Trước
hết, hai con người này quá khác
nhau. Bà Từ Cung xuất thân nghèo khó, đến mức phải bán con làm hầu gái
của một bà chúa, rồi sau đó được lấy sang hầu hạ bên dinh ông hoàng Bửu
Đảo (sau là vua Khải Định), rồi vì may mắn có thai với ông chủ mà trở
thành mẹ vua.
Trong
khi đó Nam Phương hoàng
hậu sinh ra trong nhung lụa, được học hành đến nơi đến chốn, ngay hôm
lấy chồng đã được tấn phong hoàng hậu. Nếu người ta nói bà Từ Cung có
chút mặc cảm với con dâu thì cũng chưa hẳn đã là đoán bừa.
Nam
Phương là nàng dâu mà bà Từ Cung bị ép phải chấp nhận đã đành. Đã thế,
cô dâu bất đắc dĩ này cũng không phải cúi đầu vào cung, mà
đã đưa ra cả mớ điều kiện “ngông cuồng” mới chịu lấy
hoàng đế: phải được tấn phong hoàng hậu, nhà vua phải giải tán tam cung
lục viện, thực hiện chế độ một vợ một chồng, con trai nàng sinh ra phải
được phong thái tử.
Thử
hỏi từ trước đến nay, có người phụ nữ nào dám ra điều kiện với hoàng
đế, mà lại những điều
kiện “trời long đất lở” chưa từng có như vậy không? Vậy mà con trai bà
lại vẫn răm rắp chấp nhận. Nghĩ đến mình ngày trước phải chịu bao tủi
nhục, ngay cả lúc mang thai còn bị hai bà mẹ chồng (bà Thánh Cung và
Tiên Cung, vợ vua Đồng Khánh, mẹ đích và mẹ đẻ
của Khải Định) bắt nằm úp bụng xuống một cái hố để đánh đòn, nhằm tra khảo xem cái bào thai ấy có đúng của Khải Định hay không…, thái hậu chắc sẽ có chút chua chát, và sinh ra ác cảm với con dâu.
Đã
thế, Nam Phương hoàng hậu vào cung còn mang theo số của hồi môn lớn,
riêng tiền mặt mà cậu ruột mừng cưới đã là 1 triệu đồng, trong khi giá
một tạ thóc hồi đó chỉ 5 đồng. Nếu tính cả
tiền bạc, nữ trang và bất động sản mà bố mẹ đẻ cho thì không biết bao
nhiêu mà kể.
Hoàng
hậu lại chiếm trọn trái tim nhà vua nhờ nhan sắc và sự quyến rũ của
mình, cộng thêm sự ủng hộ của người Pháp, nên quyền lực của Nam Phương
trong hoàng cung không phải
nhỏ. Hoàng hậu lại có tư tưởng tự do do ảnh hưởng Tây phương, nên không
thể nói một câu, làm một việc nhỏ cũng phải đón ý mẹ chồng. Tất cả
những yếu tố đó khiến cho thái hậu Từ Cung đối với con dâu mình có thể
bằng mặt nhưng khó mà bằng lòng.
Có
lẽ vì vậy mà bà Từ Cung rất dễ dàng chấp nhận bà Mộng Điệp, tình nhân
của Bảo Đại, coi Mộng Điệp như thứ phi, cho dù chế độ phi tần đã bị
chính con trai bà bãi bỏ từ lâu. Ngoài việc
Mộng Điệp trên thực tế là người luôn kề cận chăm sóc Bảo Đại, được ông
sủng ái, sinh con cho nhà vua, có một điểm nữa khiến thái hậu hài lòng
là “thứ phi” này theo đạo Phật. Cho dù đây là người vợ không cưới xin,
không hôn thú, nhưng bà vẫn nghiễm nhiên coi
Mộng Điệp là dâu, và tin tưởng giao cho việc thờ cúng tổ tiên nhà
chồng.
Bà
Mộng Điệp cũng tâm niệm mình suốt đời là vợ của Bảo Đại nên đã làm việc
đó một cách thành tâm, chu đáo nhất. Tình cảm giữa bà Từ Cung và Mộng
Điệp rất tốt đẹp. Thái hậu thậm chí còn
ban mũ áo cho “thứ phi” để thay mặt hoàng hậu Nam Phương trong các cuộc
cúng tế, mà bà hoàng hậu theo Thiên Chúa giáo không muốn dính vào.
Tình
vợ chồng giữa Bảo Đại và Nam Phương chỉ thắm thiết những năm đầu, sau
đó ông vua mải chơi và trăng hoa mải miết đuổi theo những bóng hồng
khác.
Nam
Phương lại quá nề nếp và kiêu hãnh
để cố gắng quyến rũ, giành giật chồng bằng những chiêu thức mà bà cho
là không xứng với địa vị của mình, vì thế vợ chồng mỗi ngày một xa cách,
hoàng đế ít khi về với hoàng hậu. Trong cảnh sống cô đơn ở hoàng cung,
sự lạnh lẽo trong quan hệ với mẹ chồng càng
khiến cho trái tim Nam Phương thêm tủi buồn, đúng như lời ông thầy bói
từng phán về bà thời con gái: bà sẽ bước lên địa vị tôn quý nhất, nhưng
cuộc đời lại không có mấy niềm vui.
Không có nhận xét nào:
Đăng nhận xét